Nội Dung Chính
- I - CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" CỦA MĨ (1965 - 1968)
- II - MIỀN BẮC VỪA ĐẤU TRANH CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤ (1965 - 1968)
- III - CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH" VÀ "ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH" CỦA MĨ (1969 - 1973)
- IV - MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HÓA, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973)
- V - HIỆP ĐỊNH PA-RI NĂM 1973 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM
- CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Trong thời kì cả nước có chiến tranh, nhân dân ta ở hai miền Nam - Bắc cùng chiến đấu đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục vộ" và "Việt Nam hóa chiến tranh".
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoai, vừa sản xuất, làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Cam-pu-chia.
I - CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" CỦA MĨ (1965 - 1968)
1. Chiến lươc "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mĩ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" - được tiến hành bằng lược lượng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn - lúc cao nhất (vào năm 1969) lên gần 1,5 triệu quân.
Dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện địa, hỏa lực mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn căn cứ của quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô(1) : đông - xuân 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định".
- Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" và Chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau ?
----------------------
(1) Khí hậu miền Nam có hai mùa trong năm : mùa mưa từ thắng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (theo dương lịch)
2. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ
Nhân dân ta vẫn giành được thắng lợi bằng sức mạnh của cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương cùng với ý chí "quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược". Mở đầu là thắng lợi ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9 000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường.
Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mĩ đã đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam.
Sau trận Vạn tường, khả năng chiến thắng Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của quân dân ta tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô.
Bước vào mùa khô thức nhất (đông - xuân 1965 - 1966), với 720 000 quân (trong đó có 220 000 quân Mĩ), địch mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng.
bước vào mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 980 000 quân (riêng quân Mĩ và đồng minh chiếm hơn 440 000), Mĩ mở đợt phản công với ba cuộc hành quân lớn "tìm diệt" và "bình định", lớn nhất là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta.
Kết quả sau hai mùa khô, trên toàn miền Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240 000 tên địch, bắn rời và phá hủy hơn 2 700 máy bay, phá hủy hơn 2 200 xe tăng và xe bọc thếp, hơn 3 400 ô tô.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quân chúng đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng "ấp chiến lược". Trong hầu khắp các thành thị, gia cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Đến cuối năm 1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã có cơ quan thường trực ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước khác. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
- Quân dân ta ở miền Nam đã giành được những thắng lợi nào trong những năm đầu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ (1965 - 1967) ?
3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)
Bước vào xuân 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng mâu thuận trong năm bầu cử tổng thống ở Mĩ (1968), ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam mà trọng tâm là các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán và rút quân về nước.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kịch chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 - ráng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân)
Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng 44 tỉnh, 4 trong sô 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quận lị, ở hầu khắp các "ấp chiến lược", các vùng nông thôn.
Tại Sài gòn, quân giải phóng tiến công đến tận các vị trí đầu não của địch như tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tống tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất...
Mặc dù có những tổn thất do thiếu sót trong chỉ đạo, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố "phi Mĩ hóa" chiến tranh xâm lược (tức thừa hận thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ"), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh.
- Hãy trình bày diễn biến và ý nghĩa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968).
II - MIỀN BẮC VỪA ĐẤU TRANH CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤ (1965 - 1968)
1. Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc.
Ngày 5 - 8 - 1964, sau khi dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc Bộ", Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh).
Ngày 7 - 2 - 1965, lấy cớ "trả đũa" việc quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại quân Mĩ ở Plây-ku, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới (Quảng Bình), đảo Cồn Cỏ (Vinh Linh - Quảng Trị)..., chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc(lần thứ nhất).
Không quân và hải quân Mĩ tập trung ném bóm các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thủy lợi, các khu đông dân... Chúng ném bom cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền, chùa và nhà thờ.
- Đế quốc Mĩ đánh phá miền Bắc nước ta như thế nào ?
2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất
Ngay từ đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh ; triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của.
Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dưng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh, tăng khả nnagw đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống của nhân dân từng địa phương.
Trên toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Trong hơn bốn năm (từ 5 - 8 - 1964 đến ngày 1- 11 - 1968), miền Bắc bắn rơi, phá hủy 3 243 máy bay, trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F111 ; loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn phi công ; bắn cháy và bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 - 1968, Mĩ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng.
Về nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năm suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt "Ba mục tiêu" (5 tấn thóc, 2 đầu đầu lợn, 1 lao động trên 1 héc-ta diện tích gieo trồng trong 1 năm). Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đặt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 héc-ta trong hai vụ, đến năm 1967 tăng 30 huyện và 2 485 hợp tác xã.
Về công nghiệp,năm lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớn đi vào sản xuất, đáp ứng như cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh.
Giao thông vận tải là môt trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của địch, nhưng ta vẫn bảo đảm giap thông thông suốt, đáp ứng được yêu cầu phục vụ chiến đấu, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
- Miền Bắc đạt được những thành tích gì trong việc thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đầu vừa sản xuất ?
3. Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn.
Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu "Mỗi người làm việc bằng hai". Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người".
Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ (dọc theo dây Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển) bắt đầu khia thông từ tháng 5 - 1959, đã nối liền hậu phương với tiền tuyến.
Nhờ hai tuyến đường vận chuyển chiến lược trên, qua 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa hơn 300 000 cán bộ, bộ đôi vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, và hóa tại các vùng giải phóng ; gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, xăng dầu,lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam sau bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.
- Hậu phương miền Bắc đã chi viện những gì và bằng cách nào cho tiền tuyến miền Nam đánh Mĩ ?
III - CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH" VÀ "ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH" CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Chiến lược "việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", Mĩ chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược "Đông Dương hóa chiến tranh".
Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp hỏa lực và không quân Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự.
Quân đội Sài Gòn còn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Cam-pu-chia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu "Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".
- Mĩ thực hiện âm mưu thủ đoạn gì trong việc tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" (1969 - 1973)
2. Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ
Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày 6 - 6 - 1969 là thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vừa ra đời, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhân, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở hai miền và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang trên đà thắng lợi, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 - 9 - 1969. Đó là một tổn thất lớn đối với dân tộc ta và cách mạng nước ta.
Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc lịch sử. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở hai miền ra sức đẩy mạnh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.
Trong hai năm 1970 - 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nươc sCam-pu-chia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị.
Trong hai ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia họp để biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu, chống đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.
Từ ngày 30 - 4 đến ngày 30 - 6 - 1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Cam-pu-chia, đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân.
Từ ngày 12 - 2 đến ngày 23 - 3 - 1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã đấp tan cuộc hành quân mang tên "Lam Sơn - 719" nhằm chiếm giữ Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
Thắng lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, chống "bình định".
Ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân diễn ra liên tục. Đặc biệt ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, phong trào học sinh, sinh viên rầm rộ đã thu hút đảo giới trẻ tham gia.
Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thi, đều có phong trào của quần chúng nổi dậy chống "bình định", phá "ấp chiến lược" của địch.
- Nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia đã giành được những thắng lợi chung nào trên các mặt trận quân sự và chính trị trong chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" (1969 - 1973) ?
3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
Bước vào năm 1972, từ ngày 30 - 3 quân ta mở cuộc tiến công chiến lược đánh vào Quảng trị, lấy Quảng trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khpaws chiến trường miền Nam, kéo dài trong năm 1972.
Quân ta tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hầu khắp các địa bàn chiến lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngắn (đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đồng Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn và đông dân.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mĩ tuyên bố "Mĩ hóa" trở lại chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
- Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã diễn ra như thế nào ? Ý nghĩa lịch sử của cuộc tiến công đó ?
IV - MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HÓA, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa
Trên khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất, nhằm trước hết khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa.
Về nông nghiệp, ta có một số chủ trương khuyến khích sản xuất. Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật và nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc, một số hợp tác xã đạt từ 6 - 7 tấn thóc trên 1 héc-ta gieo trồng. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968.
Về công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiệp, đưa vào hoạt động. Nhà máy thủy điện Thác Bà (Yên Bái) là nhà máy thủy điện đầu tiên của nước ta được gấp rút hoàn thành và bắt đầu phát điện từ tháng 10 - 1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng... đều có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.
Hệ thống giao thông vận tải, nhất là các tuyến gia thông chiến lược, bị phá hoại nặng nề được khẩn trương khôi phục.
Văn hóa, giáo dục, ý tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế và xã hội bước đầu được khắc phục.
- Miền Bác đạt được những thành tựu gì trong việc thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ?
2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
Ngày 6 - 4 -1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi từ Thanh Hóa và Quảng Bình. Ngày 16 - 4 - 1972, Ních-xơn (Nixon) tuyên bố chính thức cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lân thức hai) ; đến ngày 9 - 5 - 1972, tuyên bố phong tỏa cảng Hài Phòng cùng các cửa sông luồng lạch, vùng biển miền Bắc nước ta.
Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã có thể chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đầu.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miền Bắc vẫn không ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hóa, giáp dục, y tế được duy trì và phát triển.
Gần hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, ngày 14 - 12 - 1972, Ních-xơn phê chuẩn kế hoạc mở cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng, bắt đầu từ chiều tối 18 đến hết ngày 29 - 12 -1972.
Quân dân ta ở miền Bắc đã đánh trả didhcj những đòn đích đáng từ trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kịch bằng không quân của Mĩ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không".
"Điện Biên Phủ trên không" là trận thắng quyết định của ta, đã buộc Mĩ phải trở lại Hội nghị Pa-ri và kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 - 1 - 1973).
- Quân dân miền Bắc đã giành được những thắng lợi gì trong trận chiến đấu chống cuộc tập kích không quân bằng máy bay B582 cuối năm 1972 của Mĩ ?
V - HIỆP ĐỊNH PA-RI NĂM 1973 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM
Cuộc thương lượng chính thức tại Pa-ri, hợp ngày 13 - 5 - 1968 giữa hai bên - đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và địa điện Chính phủ Hoa Kì ; vàu từ ngày 25 - 1 - 1969, giữa bốn bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ cách mang lâm thời Công hòa miền Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Công hòa (Chính quyền Sài Gòn).
Lập trường bốn bên, mà thực chất là hai bên Việt Nam và Hoa Kì, rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gây gắt trên bàn thương lượng.
Lập trường của phía Việt Nam là đòi rút hết quân Mĩ và quân đồng minh khỏi miền Nam, đời họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Lập trường của phía Mĩ thì ngược lại, đòi quân đội miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam, từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (10 - 1972), để mở cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 vào Hà nội - Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, với ý đồ buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định do Mĩ đua ửa.
Nhưng Mĩ đã thật bại trong cuộc tập kịch không quân bằng máy bay B52 và buộc phải trở lại kí dự thảo Hiệp định Pa-ri do ta đưa ra trước đó.
Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí chính thức ngày 27 - 1 - 1973 giữa bốn Bộ trưởng đại diện cho các chính phủ tham dự Hội Nghị tại Pa-ri và bắt đầu có hiệu lực từ ngày kí chính thức.
Nội dung Hiệp định bao gồm những điều khoản cơ bản sau :
- Hoa Kì và các nước cam kết tôn tọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãn thổ của Việt Nam.
- Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
- Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
- Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau từ binh và dân thường bị bắt.
- Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Hiệp định Pa-ri về Việt Nam (được Hội nghị 12 nước hợp ngày 2 - 3 - 1973 tại Pa-ri công nhận về mặt pháp lí quốc tế) là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miền đất nước. Với Hiệp định Pa-ri, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, pahir rút hết quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn