Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc -Nguyễn Đình Chiểu | Ngữ văn 11 (tập một) - Lớp 11 - Giáo Dục Việt Nam

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc -Nguyễn Đình Chiểu


Kết quả cần đạt

  • Nắm được những nét chính về cuộc đời, nghị lực, nhân cách và giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
  • Cảm nhận được vẻ đẹp bi tráng của bức tượng đài nông dân nghĩa sĩ có một không hai trong lịch sử văn học trung đại và tiếng khóc đau thương của Nguyễn Đình Chiểu cho một thời kì ''khổ nhục nhưng vĩ đại'' của dân tộc.
  • Hiểu những nét cơ vản về thể văn tế và thấy được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài văn tế.

Phần một : Tác giả

I - Cuộc đời

Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) tự là Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai(1), sinh tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Giả Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông cuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên - Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Ở đây, ông lấy bà Trương Thị Thiệt làm vợ thứ, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về GIa Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền lục tỉnh.

hinh-anh-van-te-nghia-si-can-giuoc-nguyen-dinh-chieu-2504-0

(1) Hối Trai: cái phòng tối. Sau khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu mới lấy tên hiệu này.

Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thờ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông khảng khái khước từ tất cả giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt với nước với dân cho đến hơi thở cuối cùng.

II - Sự nghiệp thơ văn

1. Những tác phẩm chính

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lý làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phân Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáo (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyên thơ dài).

Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
________________________________________________________________________

(Dương Từ - Hà Mậu)

2. Nội dung thơ văn

Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa : Nguyễn Đình Chiểu viết Truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Đạo lí làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế : ''Tôi xin ra sức anh nào - Cứu người cho khỏi lao đao buổi này''.

Lòng yêu nước, thương dân : Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời địa là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu , hi sinh vì Tổ Quốc. Ông tố cáo tội ác giặc xâm lăng gây bao thảm họa cho nhân dân (Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh), ông ngợi ca những sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Tòng vẫn nặng lòng với hai chữ  trung quân nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, đã dám chống lại chiếu chỉ nhà vua, phất cao cờ nghĩa, cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng : ''Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền(1); theo bụng dân phải chịu tướng quân phù(2), gánh vác một vai khổn ngoại(3)'' (Văn tế Trương Định). Dưới ngọn cờ đó là đông đảo những người nông dân nghèo khổ, thác mà đăng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh... Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen...'' (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả trong thất bại, dân tộc này vẫn không bao giờ chịu khom lưng, uốn gối trước kể tù. Kì Nhân Sư, người thầy thuốc giỏi tỏng Ngư Tiều y thuật vấn đáp, dẫu không thể làm gì để cứu vãn tình thế đất nước, vẫn biểu thị tấm lòng kiên trung bất khuất bằng cách tự công đôi mắt mình cho mù chứ không chịu phụng sự quân giặc, để lại cho đời bài học nhân sinh cao cả: ''Dù đui mà giữ đạo nhà - Còn hơn có mắt ông cha không thờ''.

3. Nghệ thuật thơ văn''

Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp quan trọng nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Vẻ đẹp của thơ văn ông không phát lộ rực rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẩm. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương con người của nhà thơ, bao giờ cũng nồng đậm hơi thở cuộc sống, tự nó đã tạo nên sức rung động mãnh liệt sau xa. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn rất đậm đà sắc thái Nam Bộ. Mỗi người dân Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị đến tâm hồn nồng nhiệt, chất phác, cách cư xử khoáng đạt, hồn nhiên... Lối thơ thiên về kẻ trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.

Đó là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Xứng đáng là những tác phẩm của văn học Việt Nam cuối thời trung đại.

_________________
(1) Mã Tiền: trước đầu ngựa, ý nói những người dẫn đã đến ngăn trước đầu ngựa.
(2) Tướng quân phù: ấn tín của tướng lĩnh.
(3) Khốn ngoại : ngoài ngạch cửa (thành), chỉ trách nhiệm và công việc của người làm tướng.

Đã hơn một thế kỉ trôi qua, tiếng thơ Đồ Chiểu vẫn ngân vang giữa cuộc đời. Tên tuổi nhà thơ mù xứ Đồng Nai vẫn rực sáng bầu trời văn nghệ dân tộc bởi nhân cách cao đẹp và những cống hiến lớn lao của ông cho văn học nước nhà.

Hướng dẫn đọc bài

  1. Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh(chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ?
  2. Tìm hiểu giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu?

-Dựa vào những đoạn trích đã học về Truyện Lục Vâm Tiên (ở lớp 9 và lớp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào.

-Nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu? Tác động tích cực của những sáng tác thơ văn đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời?

-Theo anh(chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào?

3*. Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu, anh(chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này? Hãy trình bày ý kiến của mình.

Ghi nhớ

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương trong sáng, cao đẹp về nhân cách nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung bất khuất trước kẻ thù. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắcmang đậm sắc thái Nam Bộ.

Luyện tập

Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông, anh(chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu : ''Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hổn Đồ Chiểu''(1)?

___________
(1) Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, trong Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, NXB Kha học xã hội, Hà Nội, 1973.

Phần hai: Tác phẩm

Tiểu dẫn

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1) là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 16 - 12 - 1861. Nghĩa quân giết được tên quan hai Pháp và một số kính thuộc địa, làm chủ đồn hai ngày rồi bị phản công và thất bại. Nghĩa quân hi sinh khoảng 20 người. Trong bối cảnh cuộc chiến đấu không cân sức những ngày đầu chống Pháp, khi toàn dân tộc đang quyết một lòng thà chết vinh còn hơn sống nhục, sự hi sinh vì đại nghĩa này quả có sức cổ vũ và khích lệ to lớn. Bởi thế, bài văn ngay lập tức được truyền tụng khắp nơi trong nước, làm xức động lòng người. Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc, người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng một bức tượng đài nghệ thuật bất tử.

Văn tế là một loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản: kể lại cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm ở mỗi bài có thể khác nhau. Có bài mang tính sử thi bi tráng  (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội châu). Đặc biệt, có khi văn tế còn được viết trong những hoàn cảnh khác, nhằm mục đích khác (ví dụ Tú Xương làm Văn tế sống vớ với giong hài hước, dí dỏm, hay các nhà văn cách mạng say này có thể làm văn tế bọn thực dân, đế quốc đả kích, châm biến). Văn tế có thể được viết theo luật, có vần, có đối). Giọng điệu văn tế nói chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và mở đầu (lung khởi) luận chung về lẽ sống chết, thường khởi xướng bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!; đoạn thứ hai (thích thực) kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa; đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm thương tiết đối với người đã chết; đoạn thứ tư (kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người đứng kế.

Văn bản

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây , tuy là mất tiếng vang như mỏ (2).

____________
(1) Nghĩa sĩ  : Người có chí khí, không quản ngại hi sinh vì việc nghĩa cứu người, cứu nước.
Cần Giuộc: nay thuộc tỉnh Long An
(2) Cả câu này ý nói : Mười năm làm ruộng, chưa chắc đã được ai biết đến tên tuổi; một trận nghĩa đánh Tây, tuy hi sinh nhưng tiếng thơm còn mãi.

Nhớ linh(1) xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó(2):

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung(3); chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ(4).

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc(5) phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trong mưa; mùi tinh chiên(6) vấy vá(7) đã ba năm ghét thói mọi(8) như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong(9) che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra ăn cổ.

Một mối xa thư(10) đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu (11); hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu chung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình(12); chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ(13).

_______________
(1) Linh: linh hồn; ở đây chỉ người đã chết.
(2) Cui cút(còi cút) bơ vơ, không nơi nương tựa. Cả hai câu ý nói âm thầm, lặng lẽ làm ăn mà vẫn nghèo khó suốt đời.
(3) Trường nhung : bãi chiến trường.
(4) Làng bộ : chỉ làng xóm có bản chép là làng bộ.
(5) Phong hạc : lấy ở câu Phong thanh hạc lệ, thỏa mộc giai binh, nghĩa gốc chỉ sự hồi hợp, lo lắng, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là quân giặc đuổi đánh. Ở câu này chỉ có nghĩa là tin kẻ địch đến.
(6) Mùi tinh chiên: mùi tanh hôi, ở đây chỉ thực dân Pháp.
(7) Vấy vá : làm dơ bẩn, dây dính bậy bạ.
(8) Thói mọi : thói tật mọi rợ, dã man (của thực dân Pháp)
(9) Bòng bong : vải che nắng, vỉ buồm trên boong tàu.
(10) Xa thư : xe cộ và chữ viết (do câu Xa đồng quỹ, thư đông văn, có nghĩa là trục bánh xe có cùng độ dàu, sách viết cùng một lối chữ), ý chỉ một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
(11) Chém rắn : chém kẻ cản đường. Đuổi hươu : giành lấy đất nước. Cả vế câu Một mối xa thư... chém rắn đuổi hươu ý nói : Nước ta là một khối thống nhất, đang bị xâm lược lẽ nào còn chờ ai đứng lên giành lại bộ, tức là phải tự mình nhận lấy sứ mệnh bảo vệ đất nước.
(12) Đoạn kình : chém cá kình, loài cá to và dữ tợn ngoài biển.
(13) Bộ hổ : bắt hổ. Đoạn kình, bộ hổ : ý nói ra sức tiêu diệt giặc.

Khá thương hay!

Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ(1), theo dòng(2) ở lính diễn binh(3); chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ(4).

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

Ngoài cật(5) có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu(6), bầu ngòi(7); trong tay cầm một ngọn tầm vông(8), chi nài sắm dao tu(9), nón gõ(10).

Hỏa mai(11) đánh bằng rơm con cúi(12). cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đại nhỏ đnạ to, xô cửa xong vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tàu(13) ma ní(14) hồn kinh; bọn hè trước lũ(15) ó sau, trối kệ tàu sắt(16) tàu đồng súng nổ.

Ôi!

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm(17) vội bỏ.

______________
(1) Cơ, vệ : các loại đơn vị quân đội thời phong kiến.
(2) Theo dòng : theo dòng dõi cha ông.
(3) Diễn binh : luyện tập việc binh.
(4) Mến nghĩa làm quân chiêu mộ (chiêu : vời, mời; mộ : cầu, tìm) : lúc này, nhiều sĩ phu yêu nước đã dựng cờ nghĩa, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Những người nông dân vì mến nghĩa mà tự nguyện gia nhập nghĩa quân.
(5) Cật: lưng.
(6) Bao tấu : ba đựng dao, mã tấu.
(7) Bầu ngòi : bao đựng thuốc đạ, ngòi nổ.
(8) Tầm vông : loại tre đặc ruột, rất cứng, thường dùng làm gậy thay cho vũ khí.
(9) Dao tu : loại dao dao lưỡi dài, sắc bén, thường buộc vào lưng dùng để chăm ngòi nổ cho một loại súng cổ (súng hỏa mai)
(10) : Nón gõ : nón đội của lính ngày xưa.
(11) Hỏa mai : mồi óm lửa, đồ làm bằng vật nhạy bắt lửa; thường dùng để chăm ngòi nổ cho một loại súng cổ (súng hỏa mai).
(12) Rơm con cúi : rơm bện chặt thành cuộn dài để làm mồi lửa.
(13) Mã tà (phiên âm theo tiếng Ma- lai-xi-a : mata) : lính cảnh sát.
(14) Ma ní (phiên âm theo tiếng Phi-líp-pin là Ma-ni-la) : lính thuộc địa tuyển mộ ở Phi-líp-pin.
(15) Bọn, lũ : chỉ nhiều người, không có ý khinh thị.
(16) Có bản chép là tàu thiếc.
(17) Xác phàm : xác của con người trần tục.

Một chắc sa trường rằng chứ(1), nào hay da ngựa bọc thây(2); trăm năm âm phủ ấy chứ quy(3), nào đợi gương hùm treo mộ(4).

Đoái sống Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình(5), già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành giữ quỹ bỏ đi, mà hiểu lực theo quân cho đánh(6).

Nhưng nghĩ rằng : 

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi(7) cho nước nhà ta ; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tả đạo(8), quãng vùa hương (9), xô bàn độc(10), thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thắc mà đặng câu địch khái (11), về theo tổ phục (12) cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man đi(13) rất khổ.

Thà thác nà đặng câu địch khái (11), về theo tổ phụ(12) cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di(13) rất khổ.

_____________
(1) Hạnh: may mắn.
(2) Da ngựa bọc thây: chỉ cái chết ơ nơi chiến tường. Cá vế câu ý nói : Chốn sa trường những ming gặp may mắ, nào ngờ đã phải hi sinh.
(3) Quy : về, có nghĩa là chết. Theo triết lí đạo Phật, sống là gửi, thác về (sinh kí, tử quy).
(4) Gươm hùm treo mộ : theo tích cổ Trung Quốc, một nghĩa thời Chiến quốc khi chết đã đặn con treo cây gươm trên mộ đẻ tỏ chí nguyện chưa thành.
(5) Chợ Trường Bình : thuộc Cần Giuộc.
(6) Vi binh : làm lính. Hiệu lực : ở đây hiểu là hết sức làm việc. Cả câu ý nói : Chẳng phải vì mắc tội mà bị buộc phải làm lính để lập công chuộc tội.
(7) Tài bồi : vun đắp, vun trồng. Cả câu ý nói : Tấc đất, ngọn rau đều là ơn vua (bao đời) vun đắp cho nước nhà ta ; bắt cơm manh áo của ta, mắc mớ gì đến ông cha chúng nó (mà chúng nó cướp đi).
(8) Tá đạo : chỉ đạo Thiên Chúa.
(9) Vùa hương : bát hương, lư lương trên bàn thờ.
(10) Bàn độc : bàn thờ.
(11) Địch khái : tình thần, ý chí chống kẻ thù.
(12) Tổ phục : ông nội, ở đây chỉ tổ tiên nói chung.
(13) Man di : chỉ thực dân Pháp.

Ôi thôi thôi!

Chùa Tông Thạnh (1) năm canh ưng (2) đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm ; đồn Lang Sa (3) một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ(4).

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơ bóng xế dật dờ(5) trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ(6).

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn wor đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ(7).

Thác nà trả nước non rồi nợ(8), danh thơm đồn sáu tỉnh chúng(9) đều khen; Thác mà ưng(10) đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giạc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyên được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ (11) dạy đa rành rành, một chữ ấm (12) đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chứ thiên dân ; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi mọt câu vương thổ (13).

Hỡi ôi thương thay!
Có linh xin hưởng.

________________________________________________________________________________________________
(Theo Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu,
NXB Văn học Giải phóng, tp Hồ Chí Minh, 1976)

_____________________
(1) Chùa Tông Thạnh : có bản chép là Tôn Thanh, tên một ngoi chùa ở Cần Giuộc mà nghĩa quân đã sử dụng làm căn cứ chống giặc.
(2) Ung : phải, chịu.
(3) Đồn Lang Sa (Lang sa : gọi tắt từ Pha-lang-xa, phiên âm tiếng Pháp : France) : chỉ những đồn binh Pháp đóng ở bên kia chợ Cần Giuộc.
(4) Túi phận bạc trôi theo dòng nước đổ : ý nói về sự hi sinh của nghĩa quân. Khi quân Pháp phản công, họ rút lui, bơi qua sông Cần Giuộc và bị súng trên tàu chiến giặc bắn giết.
(5) Dật dở (như vật vờ): vất vơ vất vưởng,
(6) Tiết rỡ : danh tiếng rạng rỡ.
(7) Con đó : đứa trẻ mới sinh còn đó hỏn (xích tứ), nghĩa bóng chỉ nhân dân (ý nói nhân dân cần được chăm sóc, bảo vệ như trẻ sơ sinh).
(8) Rồi nợ: trả xong nợ nước non.
(9) Chúng : dân chúng, mọi người.
(10) Ưng : ở câu này có nghĩa là ''được''.
(11) Lời dụ : lời dạy bảo.
(12) Chữ ấm : ẩn trạch, chức tước mà con cái những người làm quan, người có công lao với triều đình được thừa hưởng (gọi là được tập ấm).
(13) Thiên dân : dân của trời. Theo quan niệm phong kiến, vua là con trời (thiên tử), cho nên nhân dân trong nước đều là tôi con của vua, tát cả đất đau trong nước cũng đều là của vua (vương thổ). Cả câu ý nói : Nước mắt khóc những người anh hùng lau mãu cũng không khô, cảm thương nhân dân (đang phải khổ đau) ; thắp nén hương thơm tưởng nhớ nghĩa sĩ, lại chạnh lòng nghĩ đến nước non (đang bị quân giặc giày xéo).

Hướng dẫn học bài

1. Đọc Tiểu dẫn, nắm những nét cơ bản về thể văn tế. Tìm bố cục của bài văn tế này.
2. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế như thế nào? (Chú ý phân tích qua cả quá trình : hình ảnh họ trong cuộc sống bình thường, những biến chuyển khi quân giặc xâm phạm tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo, vẻ đẹp hào hùng của đội quần áo vải trong trận nghĩa đánh Tây.)
3. Tiếng khóc bi tráng của tác giải xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh(chị), đó là những cảm xúc gì? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không bi lụy?
4. Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.

Ghi nhớ

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi trang cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực ; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.

Luyện tập

  1. Đọc diễn cảm bài văn tế.
  2.  Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết : ''Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể thẻ tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây : đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục''(1). Anh(chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.

_____________________
(1) Hợp tuyến thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.

Tin tức mới


Đánh giá

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc -Nguyễn Đình Chiểu | Ngữ văn 11 (tập một) - Lớp 11 - Giáo Dục Việt Nam

Tổng số sao của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Xếp hạng: 5 / 5 sao

Bình Luận

Để Lại Bình Luận Của Bạn

Tin tức mới

Bộ Sách Lớp 11

Giáo Dục Việt Nam

Bộ Sách Giáo Khoa của Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam

Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống

Sách giáo khoa của nhà xuất bản Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống

Sách Giáo Dục Việt Nam

Lớp 6

Sách giáo khoa dành cho lớp 6

Lớp 5

Sách giáo khoa dành cho lớp 5

Lớp 4

Sách giáo khoa dành cho lớp 4

Lớp 3

Sách giáo khoa dành cho lớp 3

Lớp 7

Sách giáo khoa dành cho lớp 7

Lớp 8

Sách giáo khoa dành cho lớp 8

Lớp 9

Sách giáo khoa dành cho lớp 9

Lớp 10

Sách giáo khoa dành cho lớp 10

Lớp 11

Sách giáo khoa dành cho lớp 11

Lớp 12

Sách giáo khoa dành cho lớp 12

Liên Kết Chia Sẻ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.