Nội Dung Chính
I - MỞ ĐẦU BÀI HỌC
Pháp luật là phương tiện quản lí Nhà nước, là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Câu hỏi đặt ra là: Nhà nước và công dân sử dụng phương tiện pháp luật như thế nào? Các quy định trong luật, bộ luật đi vào đời sống hằng ngày của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức theo cách thức nào?
Học xong bài này, học sinh cần:
- Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
- Hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
- Biết cách thực hiện pháp luật phù hợp với lứa tuổi.
- Có thái độ tôn trọng pháp luật, ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy định của pháp luật.
II - NỘI DUNG BÀI HỌC
1. Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật
a) Khái niệm thực hiện pháp luật
Pháp luật được ban hành để hướng dẫn hành vi, điều chỉnh cách cư xử của mỗi cá nhân, tổ chức theo các quy tắc, cách thức phù hợp với yêu cầu của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là, pháp luật chỉ thật sự đi vào đời sống nếu mỗi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội cụ thể, trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể đều lựa chọn cách cư xử phù hợp với quy định của pháp luật.
Ví dụ:
- Trên đường phố, mọi người đi xe đạp, xe máy, ô tô tự giác dừng lại đúng nơi quy định, không vượt qua ngã ba, ngã tư khi có tín hiệu đèn đỏ. Đó là việc các công dân thực hiệp pháp luật giao thông đường bộ.
- Ba thanh niên đèo (chở) nhau trên một xe máy bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe, lập biên bản phạt tiền. Đó là việc cảnh sát giao thông áp dụng pháp luật để xử lí hành vi vi phạm pháp luật giao thông của các công dân.
Trong hai ví dụ trên, việc tuân thủ pháp luật của công dân và việc áp dụng pháp luật của cảnh sát giao thông đều là những hành vi phù hợp với quy định của pháp luật (hành vi hợp pháp) để đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, để pháp luật giao thông thực hiện trong cuộc sống.
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
b) Các hình thức thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình thường xuyên trong cuộc sống, với sự tham gia của cá nhân, tổ chức và Nhà nước, bao gồm bốn hình thức sau đây:
Sử dụng pháp luật: Các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình, làm những gì mà pháp luật cho phép làm.
Ví dụ: Công dân thực hiện quyền tự do kinh doanh thông qua việc lựa chọn ngành, nghề, hình thức kinh doanh phù hợp với điều kiện, khả năng của mình và tổ chức việc kinh doanh theo đúng pháp luật…
Thi hành pháp luật: Các cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật quy định phải làm…
Ví dụ: Người kinh doanh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nam thanh niên từ 18 tuổi đến 25 tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự,…
Tuân thủ pháp luật: Các cá nhân, tổ chức không làm những điều mà pháp luật cấm.
Ví dụ: Người kinh doanh không kinh doanh những mặt hàng, ngành, nghề bị cấm kinh doanh. Người tham gia giao thông không vượt ngã ba, ngã tư khi có tín hiệu đèn đỏ.
Áp dụng pháp luật: Các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để đưa ra pháp luật làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi công việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức. Trong một số trường hợp, cá nhân, tổ chức chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua hình thức áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước. Đó là những trường hợp:
- Các quyền và nghĩa vụ của công dân không tự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt nếu không có một văn bản, quyết định áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ví dụ: Quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng chỉ phát sinh được khi pháp luật bảo vệ sau khi họ được Ủy ban nhân dân xã, phường cấp giấy đăng ký kết hôn; ngược lại, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng chỉ chấm dứt sau khi Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận thuận tình li hôn hoặc ra bản án xử lí li hôn. Trong các trường hợp nào Ủy ban nhân dân xã, phường và Tòa án nhân dân đã áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình để giải quyết việc kết hôn hoặc li hôn, làm phát sinh hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
- Cơ quan nhà nước ra quyết định xử lí người vi phạm pháp luật hoặc giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức. Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước, người vi phạm pháp luật hoặc bên tranh chấp phải thực hiện các quyền nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Cá nhân, tổ chức kinh doanh trốn thuế phải nộp phạt theo quyết định xử phạt của cơ quan thuế, người người phạm tội phải chấp hành hình phạt theo bản án do Tòa án tuyên. Đây là trường hợp áp dụng pháp luật của cơ quan thuế và Tòa án.
c) Các giai đoạn thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình bao gồm các giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1: Giữa các cá nhân tổ chức hình thành một quan hệ xã hội do luật điều chỉnh (gọi là quan hệ pháp luật).
Ví dụ:
- Người lao động và giám đốc doanh nghiệp sử dụng quyền của mình theo quy định của pháp luật để cùng nhau thỏa thuận về việc làm, kí kết hợp đồng lao động, xác lập quan hệ lao động giữa các bên.
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cảnh sát giao thông làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính giữa người vi phạm pháp luật giao thông và Nhà nước.
Giai đoạn 2: Cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong hợp đồng, người lao động phải hoàn thành các công việc được giao đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng, chấp hành kỷ luật lao động, tuân theo quy trình kỷ luật,… còn người sử dụng lao động phải bảo đảm các điều kiện an toàn lao động và trả công đầy đủ, đúng hạn cho người lao động.
Nếu cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ can thiệp và ra các quyết định để buộc họ phải thực hiện đúng pháp luật. Đây không phải là giai đoạn bắt buộc của quá trình thực hiện pháp luật vì chỉ xảy ra khi cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Nếu người sử dụng lao động buộc người lao động thôi việc trái pháp luật thì người lao động có quyền kiện ra Tòa án. Quyết định của Tòa án phải được các bên nghiêm chỉnh thi hành. Chẳng hạn: người sử dụng lao động phải tiếp cận người lao động trở lại làm việc và bồi thường những thiệt hại mà người đó phải chịu trong thời gian buộc thôi việc trái pháp luật.
Như vậy, quá trình thực hiện pháp luật chỉ đạt được hiệu quả khi mỗi cá nhân, tổ chức đặc biệt là các cơ quan, công chức nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật đều chủ động, tự giác thực hiện đúng đắn quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật.
2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
Tình huống: Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A vì cả hai đều lái xe máy đi ngược đường một chiều. Bố bạn A không chịu nộp tiền phạt vì lí do ông không nhận ra biển báo đường một chiều, bạn A mới 16 tuổi, còn nhỏ, chỉ biết đi theo ông nên không đáng bị phạt.
Theo em, lí do mà bố bạn A đưa ra có xác đáng không? Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A có đúng không? Bạn A có phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình không?
a) Vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật.
- Hành vi đó có thể là hành động - làm những việc không được làm theo quy định của pháp luật (ví dụ: Bạn A chưa đến tuổi được phép tự điều khiển mô tô và lái xe máy trên đường và hai bố con bạn A đều lái xe ngược chiều quy định) hoặc không hành động - không làm theo những việc phải làm theo quy định của pháp luật (ví dụ: cơ sở kinh doanh không nộp thuế cho nhà nước).
- Hành vi đó xâm phạm, gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (ví dụ: hành vi lái xe ngược chiều quy định xâm phạm trật tự, an toàn giao thông).
Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.
Năng lực trách nhiệm pháp lí được hiểu là khả năng của người đã đạt một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, tự quyết định cách xử sự của mình, do đó, phải độc lập chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện.
Trong tình huống trên, cả hai bố con bạn A đều là những người có năng lực trách nhiệm pháp lí. Pháp luật hành chính và pháp luật hình sự nước ta đều quy định người từ đủ tuổi 16 tuổi trở lên đều phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi vi phạm pháp luật của mình. Hai bố con bạn A đều có đủ khả năng nhận thức rằng đi xe máy ngược chiều là quy phạm pháp luật, có thể gây ra tai nạn, nguy hiểm cho người khác, họ hoàn toàn tự quyết định hành vi của mình, không ai ép buộc họ phải đi ngược chiều, do đó, họ phải tự chịu trách nhiệm về việc mình đã làm.
Thứ ba, người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
Lỗi thể hiện thái độ của người biết hành vi của mình là sai, trái pháp luật, có thể gây hậu quả không tốt nhưng vẫn cố ý làm hoặc vô tình để mặc cho sự việc xảy ra.
Theo em, trong tình huống trên, hai bố con bạn A có lỗi không? Vì sao?
Từ các dấu hiệu trên, có thể rút ra kết luận:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
b) Trách nhiệm pháp lí
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ mà các tổ chức, cá nhân phải thực hiện. Theo nghĩa thứ hai, trách nhiệm là nghĩa vụ mà các chủ thể phải gánh chịu hậu quả bất lợi khi không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật. Trong bài học này, trách nhiệm được hiểu theo nghĩa thứ hai.
Trong tình huống trên, hai bố con bạn A đã vi phạm pháp luật giao thông đường bộ và họ phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Câu hỏi đặt ra là: hai bố con bạn A phải chịu trách nhiệm trước ai? Họ chưa gây ra tai nạn, chưa phải bồi thường cho ai, vậy cảnh sát giao thông nhân danh ai và căn cứ vào đâu để phạt tiền họ? Việc phạt ấy có ý nghĩa gì?
Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là họ đã xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ, cũng có nghĩa là xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến lợi ích của cá nhân, tổ chức khác đến trật tự an toàn và lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội. Trong những trường hợp đó, pháp luật thể hiện sức mạnh đặc trưng của mình là quyền lực, buộc các chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình
Trách nhiệm pháp lí là nghĩa vụ mà các cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu hậu quả bất lợi từ hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Trách nhiệm pháp lí được áp dụng nhằm:
- Buộc các chủ thể vi phạm pháp luật chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật; buộc họ phải chịu những thiệt hại, hạn chế nhất định, buộc họ phải làm những công việc nhất định để trừng phạt, đồng thời ngăn chặn họ tiếp tục vi phạm pháp luật cũng như để khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật của họ gây ra, để bảo vệ các trật tự, lợi ích xâm hại, đảm bảo cho các quan hệ xã hội diễn ra và phát triển đúng hướng điều chỉnh của pháp luật. Những hạn chế, thiệt hại áp dụng đối với người vi phạm pháp luật có thể về tinh thần (như cảnh cáo, buộc phải xin lỗi công khai…), về tài sản, thu nhập (phạt tiền, buộc bồi thường vật chất, không được làm những nghề nhất định…), về tự do (cấm cư trú, đi lại ở những địa bàn nhất định, phạt tù…).
- Giáo dục, răn đe những người khác để họ tránh hoặc kiềm chế những việc làm trái pháp luật, đồng thời giáo dục ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, củng cố niềm tin ở những tính nghiêm minh của pháp luật, khuyến khích mọi người tích cực đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật.
Trong tình huống trên, hai bố con bạn A vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước, phải thi hành nghiêm chỉnh quyết định xử phạt hành chính của cảnh sát giao thông, cụ thể là phải gánh chịu thiệt hại vật chất (nộp tiền phạt). Việc cảnh sát giao thông hai bố con bạn A dừng xe và xử phạt họ đã chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn không để họ gây ra tai nạn cho người khác hoặc chính họ bị tai nạn do đi ngược chiều.
c) Pháp luật và trách nhiệm pháp lí
Trong thực tế, các vi phạm pháp luật xảy ra khá đa dạng. Căn cứ vào đối tượng xâm phạm, mức độ và tính chất nguy hiểm do hành vi vi phạm pháp luật gây ra cho xã hội, vi phạm pháp luật thường được chia thành 4 loại và tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật là một loại trách nhiệm pháp lí.
Vi phạm hình sự là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị coi là tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự.
Ví dụ: Hành vi xâm phạm tính mạng sức khỏe nhân phẩm danh dự của con người được quy định trong Bộ luật Hình sự với các tội như: Tội giết người; Tội cố ý gây thương tích hoặc Tội gây tổn hại sức khỏe cho người khác; Tội hiếp dâm; Tội lây truyền HIV cho người khác;...
Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự thể hiện ở việc người đó phải chấp hành hình phạt theo quyết định của Tòa án. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Việc xử lý người chưa thành niên (từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi) phạm tội được áp dụng theo nguyên tắc lấy giáo dục là chủ yếu nhằm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước.
Ví dụ:
- Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là vi phạm hành chính xâm phạm quy tắc quản lí của nhà nước về kinh tế. Nhưng nếu số lượng hàng giả lớn (tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ 30 triệu đồng trở lên) hoặc dưới 30 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính trước đó thì bị coi là tội phạm hình sự (Tội sản xuất buôn bán hàng giả).
- Hành vi điều khiển phương tiện giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ là vi phạm hành chính. Nhưng nếu hành vi đó gây thiệt hại tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì bị coi là tội phạm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Người vi phạm phải chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật. Người đã đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
Vi phạm dân sự là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ tài sản (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng...) và quan hệ nhân thân (liên quan đến các quyền của nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác, ví dụ quyền đối với họ, tên, quyền được khai sinh, bí mật đời tư, quyền xác định lại giới tính,...)
Ví dụ: Bên mua không trả tiền đầy đủ đúng thời hạn, đúng phương thức như đã thỏa thuận với bên bán hàng là khi đó bên mua đã có hành vi vi phạm pháp luật dân sự.
Người có hành vi vi phạm dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật (ví dụ: bố mẹ đối với con) đồng ý, có các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập và thực hiện.
Vi phạm kỷ luật là hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ lao động, công vụ nhà nước... do pháp luật lao động và pháp luật hành chính bảo vệ.
Ví dụ: Công chức nhà nước vi phạm các điều cấm công chức làm (cán bộ phạm luật ở các cơ quan nhà nước như Bộ tư pháp, Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an,... không được đồng thời kiêm nhiệm làm luật sư, công chứng viên...); vi phạm nghiêm trọng kỉ luật lao động về thời gian làm việc, nghỉ ngơi,...
Cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỉ luật phải chịu trách nhiệm kỉ luật với các hình thức khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển công tác khác, buộc thôi việc...
III - TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Điều 8. Khái niệm tội phạm (trích)
2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 9. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
2. Pháp lệnh Xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008)
Điều 12. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả (trích)
1. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong những hình thức xử lý xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo
b) Phạt tiền
2. Tùy theo tính chất mức độ vi phạm cá nhân tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
3. Ngoài ra các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra...
3. Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02 - 04 - 2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Điều 5. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả (trích)
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được quy định tại Nghị định này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong những hình thức xử phạt sau đây:
a) Cảnh cáo
b) Phạt tiền
[...]
2. Tùy theo tính chất mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc những hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không thời hạn;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
[...]
Điều 9. Xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ (trích)
3. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
đ) Đi vào đường cấm, khu vực cấm; đi ngược chiều của đường một chiều, từ trường hợp xe ưu tiên đang phải đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định;
Điều 24. Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới (trích)
1. Phạt cảnh cáo người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện)… hoặc điều khiển xe ô tô, xe máy kéo…
2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh 50 cm3 trở lên.
4. Bài đọc thêm
BẠN CÓ BIẾT (1)
Nhiều nhà nghiên cứu về an toàn giao thông coi vụ việc chiếc xe ô tô chạy thử sau khi xuất xưởng đã cán chết hai người ở Anh năm 1896 là tai nạn giao thông đầu tiên trên thế giới. Và 3 năm sau, ở Mĩ mới lại có một người chết do ô tô gây nên. Từ đó, tai nạn giao thông ngày càng tăng và đến nay đang là hiểm họa của cả thế giới, trong đó, tập trung chủ yếu ở các nước phát triển và các nước kém phát triển, đặc biệt là ở các quốc gia ở Châu Á và châu Phi chỉ tính riêng năm 2002 tai nạn giao thông trên thế giới đã làm cho 1,2 triệu người thiệt mạng và 50 triệu người bị thương.
Các nguyên nhân chủ yếu là của tai nạn giao đường bộ là cơ sở hạ tầng (đường, cầu), phương tiện giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn (quá hạn, quá cũ, quá nát, xe tự tạo,...) cùng với sự gia tăng quá nhanh các phương tiện giao thông (mỗi năm trên thế giới xuất xưởng thêm hàng triệu ô tô, xe gắn máy, đủ các loại). Ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông kém cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho gia tăng tai nạn giao thông trên đường bộ.
VẾT TRƯỢT TỪ CHIẾC MŨ (2)
Cậu bé quay đầu nhìn mẹ, nhìn mấy đứa bạn trong phòng xử án rồi khóc. Trong tâm trí nó giờ đây là một nỗi ân hận day dứt không nguôi. Nó khai trước Hội đồng xét xử không biết hành vi ấy là phạm pháp, chỉ đơn giản thấy thích cái mũ đầu hiệu đó để đổi cho bằng bạn bằng bè. Thế nên…
Hôm ấy, khoảng 3 giờ chiều, nó mượn xe của mẹ chở anh Bí đi có việc. Chợt nhìn thấy một chị phụ nữ đang đi xe phía trước có đội mũ hiệu DKNY, trị giá 200.000 đồng. Vốn là dân “sành điệu” nên nó biết nghe đó là mũ hàng hiệu. Phong trào đội mũ “xịn” đang trở thành mốt ở trường và nó mong muốn có được cái mũ đó biết bao. Nó nói với anh Bí: “Tụi mình chỉ giật cái mũ chứ có giật dây chuyền đâu mà sợ”. Nghĩ vậy, nó liền điều khiển cho xe áp sát vào xe của người phụ nữ để Bí ngồi sau giật chiếc mũ và tăng ga bỏ chạy. Nghe tiếng hô của nạn nhân, một cảnh sát giao thông đã đuổi theo bắt cả hai đứa…
Ra trước Tòa án với tội danh “Cướp giật tài sản” khi nó mới 15 tuổi, còn anh Bí mới sắp sang tuổi 17. Luật sư bào chữa nhận định rằng hành vi của nó là bồng bột, nhất thời, không mang tính chuyên nghiệp. Đó gần như là một trò chơi nhưng đã xâm phạm đến tính mạng và tài sản của người khác. Với các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo chưa đến tuổi thành niên, phạm tội lần đầu… Hội đồng xét xử đã tuyên phạt nó một năm tù giam và anh Bí một năm sáu tháng tù giam.
Những giọt nước mắt hối hận muộn màng chảy tràn trên hai khuôn mặt non nớt. Nhưng đau xót hơn cả vẫn là những người đã sinh thành và nuôi dưỡng, giáo dục chúng hằng ngày…
_______________
(1) Theo Báo Bạn đường, số 92, ngày 15 -10 -2007
(2) Sưu tầm và biên soạn theo Báo Pháp luật.
IV - CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Thực hiện pháp luật là gì? Em hãy phân tích những điểm giống nhau và khác nhau giữa các hình thức thực hiện pháp luật.
2. Thế nào là vi phạm pháp luật? Nêu ví dụ.
3. Theo em, vi phạm pháp luật có gì chung và khác biệt với vi phạm đạo đức? Lấy trộm tiền của người khác là vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo đức?
4. Hãy phân biệt sự khác nhau giữa vi phạm hình sự và vi phạm hành chính. Nêu ví dụ.
5. Trong các tình huống nêu ở mục 2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí, vận dụng các tư liệu trong bài, em hãy phân tích các vi phạm của bạn A và vi phạm của bố bạn A. Với các vi phạm của mỗi người, theo em họ phải chịu trách nhiệm pháp lý nào?
6. Theo em, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và phạt tù đối với hai người phạm tội chưa thành niên trong bài đọc thêm có thỏa đáng không? Vì sao?
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn