Nội Dung Chính
(Trang 4)
NGUYỄN TRÃI "DÀNH CÒN ĐỂ TRỢ DÂN NÀY"(*)
Yêu cầu cần đạt
• Vận dụng được những hiểu biết về Nguyễn Trãi để đọc hiểu một số tác phẩm của tác gia này.
• Nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử – văn hoá được thể hiện trong văn bản văn học.
• Nhận biết và phân tích được cách sắp xếp, trình bày luận điểm, lí lẽ, bằng chứng và vai trò của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận.
• Viết được văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội: trình bày rõ quan điểm và hệ thống luận điểm, bài viết có cấu trúc chặt chẽ, sử dụng các bằng chứng thuyết phục.
• Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục; tôn trọng người đối thoại.
• Kính trọng, biết ơn và học tập những nhân vật kiệt xuất đã có đóng góp lớn lao cho lịch sử, văn hoá dân tộc.
TRI THỨC NGỮ VĂN Văn học trung đại Việt Nam Văn học trung đại Việt Nam hình thành, phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, trong thời kì phong kiến. Văn học trung đại Việt Nam gồm hai bộ phận: văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Văn học trung đại Việt Nam có liên hệ mật thiết với nguồn mạch văn học dân gian; đồng thời tiếp thu một cách chọn lọc, sáng tạo tinh hoa của nhiều nền văn học trong khu vực, đặc biệt là văn học cổ điển Trung Hoa. |
------------------------------------
(*) Câu thơ trích trong bài Tùng, thuộc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
(Trang 5)
Văn học trung đại Việt Nam luôn gắn bó sâu sắc với vận mệnh của quốc gia, dân tộc, thể hiện rõ tinh thần yêu nước và đề cao các giá trị nhân văn, nhân đạo. Tính quy phạm được xem là đặc trưng nổi bật nhất trong văn học trung đại, theo đó, sáng tác văn học phải tuân theo những quy định chặt chẽ có tính khuôn mẫu, từ quan điểm sáng tác, kiểu tư duy nghệ thuật, hình thức thể loại đến hệ thống thi liệu và các thủ pháp ngôn ngữ,... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam và ở sáng tác của nhiều tác giả, một số đặc điểm quy phạm đã bị phá vỡ, thể hiện tính dân tộc và ý thức cá tính trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác giả văn học trung đại Việt Nam Nền văn học trung đại Việt Nam được tạo dựng bởi các thế hệ trí thức giàu ý thức tự tôn dân tộc. Tác giả văn học trung đại Việt Nam hấp thụ tinh hoa văn hoá dân gian của người Việt và tiếp nhận ảnh hưởng của các hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo theo xu hướng dân tộc hoá. Nhiều tác giả là anh hùng dân tộc có đóng góp to lớn cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Văn nghị luận Việt Nam thời trung đại Văn nghị luận Việt Nam thời trung đại có thành tựu rất phong phú, được viết theo nhiều thể văn khác nhau như hịch, cáo, chiếu, biểu, thư, trát, luận thuyết, tự, bạt,... Văn nghị luận thời trung đại thường có bố cục mang tính quy phạm với các phần đảm nhiệm những chức năng cụ thể, lời văn chứa nhiều điển tích, điển cố, lập luận chặt chẽ,... Trong đó, hịch, cáo, chiếu, thư là những thể văn tiêu biểu nhất. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận Văn nghị luận không chỉ thuyết phục người đọc bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén mà còn bằng các yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận thể hiện nhiệt huyết của người viết trong việc bày tỏ và bảo vệ quan điểm. Nhờ các yếu tố biểu cảm như cảm xúc, hình ảnh, giọng điệu, không chỉ chủ kiến của người viết được bộc lộ rõ ràng mà khả năng tác động đến người đọc của văn bản nghị luận cũng được gia tăng. |
(Trang 6)
VĂN BẢN 1
Tác gia Nguyễn Trãi
• Bạn hãy kể tên một số tác giả văn học trung đại Việt Nam có đóng góp quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
• Hãy chia sẻ một vài thông tin về tác giả mà bạn ngưỡng mộ.
I. TIỂU SỬNguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), nhưng lớn lên cùng gia đình ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Thái học sinh(1) dưới triều Trần; thân mẫu là Trần Thị Thái – con quan Tư đồ(2) Trần Nguyên Đán. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và làm quan cùng cha dưới triều Hồ. Năm 1407, triều Hồ sụp đổ, giặc Minh bắt Nguyễn Phi Khanh đưa về Trung Quốc và giam lỏng Nguyễn Trãi ở thành Đông Quan(3) . Một thời gian sau (khoảng năm 1423), Nguyễn Trãi tìm vào Lam Sơn (Thanh Hoá) theo giúp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách (Sách lược đánh dẹp giặc Minh). Ông được Lê Lợi tin dùng và đã có đóng góp đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Năm 1427, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế và giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo.
Nguyễn Trãi Trong thời gian Lê Thái Tổ trị vì cũng như đầu triều Lê Thái Tông, nội bộ triều đình nảy sinh xung đột, nhiều bậc công thần bị sát hại, Nguyễn Trãi cũng bị nghi kị. ---------------------------- (1) Thái học sinh: học vị của người đỗ kì thi Hội thời Trần – Hồ, tương đương với học vị Tiến sĩ của các triều đại sau. (2) Tư đồ: một chức hàm trong Tam Tư (gồm Tư đồ, Tư mã, Tư không), là chức hàm gia phong cho các vị đại thần thuộc hoàng tộc, quyền ngang Tể tướng. (3) Đông Quan: tên gọi Thăng Long thời thuộc Minh. |
(Trang 7)
Năm 1437, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn (Hải Dương). Năm 1440, vua Lê Thái Tông mời Nguyễn Trãi ra giúp nước. Ông cảm kích nhận ơn tri ngộ(1). “Thương thần như con ngựa già còn ham rong ruổi; xem thần như thông qua năm rét càng dạn tuyết sương” (Biểu tạ ơn). Năm 1442, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần vu cho tội giết vua và phải chịu án “tru di tam tộc”(2), thơ văn bị tiêu huỷ, cấm đoán. Đến tận năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi và năm 1467 ban lệnh tìm kiếm, cho khắc in di cảo(3) của ông. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hoá thế giới”. II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁCNguyễn Trãi để lại cho hậu thế một di sản văn hoá quý giá, trong đó nổi bật là những sáng tác được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, thuộc nhiều lĩnh vực: quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, văn học. Tác phẩm chữ Hán gồm: Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Chí Linh sơn phú và Băng Hồ di sự lục; sáng tác chữ Nôm có: Quốc âm thi tập. 1. Nội dung thơ văn Thơ văn Nguyễn Trãi phong phú, đa dạng về đề tài, cảm hứng; giàu giá trị tư tưởng và đậm tính trữ tình. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là tư tưởng nhân nghĩa(4), tình yêu thiên nhiên và những ưu tư về thế sự.
Tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo nhưng đã được Nguyễn Trãi tiếp thu một cách chọn lọc, sáng tạo. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là thương dân; lấy cuộc sống bình yên, no ấm của nhân dân làm mục tiêu cao nhất: Vì dân lo trước, dạ khôn nguôi (Mạn hứng, bài 2). Nguyễn Trãi luôn khẳng định vai trò và sức mạnh của nhân dân: Lật thuyền mới biết dân như nước (Quan hải – Ức Trai thi tập). Đặc biệt, ông không chỉ thương dân mà còn biết tôn trọng dân, biết ơn dân. Tư tưởng trọng dân, ơn dân bao trùm, xuyên suốt sáng tác của Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. (Bình Ngô đại cáo) --------------------------- (1) Tri ngộ: gặp gỡ nhau, biết rõ, thấu hiểu tấm lòng. (2) Tru di tam tộc: hình phạt thảm khốc thời phong kiến, xử tử nhiều người; tuỳ từng trường hợp, “tam tộc” có thể gồm ba họ (họ cha, họ mẹ, họ vợ) hoặc ba đời (đời mình, đời con, đời cháu). (3) Di cảo: bản thảo tác phẩm của người chết để lại. (4) Tư tưởng nhân nghĩa: tư tưởng Nho học, có nội dung chính là thương yêu con người, coi trọng dân chúng, xây dựng nền chính trị ổn định dựa trên cơ sở lấy “tam cương, ngũ thường” làm gốc. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Trãi nhấn mạnh mục đích, hành động thực tiễn của lí tưởng nhân nghĩa là yên dân và trừ bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi phát triển sâu sắc ở nhiều phương diện. |
(Trang 8)
Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày. (Bảo kính cảnh giới, bài 19 – Quốc âm thi tập) Là một nhà Nho, lí tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi dĩ nhiên gắn liền với tư tưởng trung quân: Quân thân chưa báo lòng canh cánh (Ngôn chí, bài 7 – Quốc âm thi tập); với giấc mơ về một triều đại vua sáng, tôi hiền. Nhưng xét đến cùng nội dung cốt lõi trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi là tình yêu dành cho nhân dân, là khát vọng xây dựng một đất nước độc lập, thái bình, hưng thịnh. Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn trong thơ văn Nguyễn Trãi (đặc biệt là thơ). Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập chứa đựng cả một thế giới thiên nhiên đa dạng, vừa mĩ lệ vừa bình dị, gần gũi. Có thể tìm thấy trong kho báu thiên nhiên “đầy qua nóc” ấy khung cảnh tráng lệ của cửa biển Bạch Đằng, Vân Đồn, Thần Phù, Vọng Doanh; vẻ hùng vĩ, nguyên sơ của Yên Tử, Côn Sơn; chốn thôn quê bình dị, dân dã, thân thuộc với những đất cày ngõ ải, giậu mùng tơi, lãnh mùng, bè muống, ... Tâm hồn Nguyễn Trãi rộng mở, tinh tế, lãng mạn - nâng niu từng vẻ đẹp, từng khoảnh khắc giao hoà cùng thiên nhiên: Cây rợp tán che am mát; Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn Ủ ấp cùng ta làm cái con. (Ngôn chí, bài 20 – Quốc âm thi tập)
Một đời ôm mối “ưu dân, ái quốc” nên hồn thơ Ức Trai trĩu nặng suy tư trước thế sự đen bạc. Thơ ông có nhiều chiêm nghiệm buồn về nhân tình thế thái; có cả những cay đắng, thất vọng, đau đớn trước một thực tại hỗn độn, bất công, ngang trái: Phượng những tiếc cao, diều lũy liệng; Hoa thù hay héo, cỏ thường tươi. (Tự thuật, bài 9 – Quốc âm thi tập) Nguyễn Trãi đã đối diện với thực tại ấy bằng tâm thế, tư thế của cây tùng, cây bách: Một mình lạt thuở ba đông (Tùng - Quốc âm thi tập), bằng cốt cách của hoa cúc, hoa sen: Sen nào có bén trong lầm (Thuật hứng, bài 25 – Quốc âm thi tập). Ông lựa chọn quan niệm sống, triết lí sống thanh cao, cứng cỏi, kiêu hãnh và lí tưởng cao cả: – Chớ cậy sang mà ép nề. Lời chăng phải vuỗn(1) khôn nghe. (Trần tình, bài 8 – Quốc âm thi tập) – Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược; Có nhân, có trí, có anh hùng. (Bảo kính cảnh giới, bài 5 – Quốc âm thi tập) ------------------------- (1) Vuỗn: âm cổ của vẫn, chỉ tình trạng hay sự thể nào đó cứ tiếp diễn như trước. |
(Trang 9)
2. Đặc điểm nghệ thuật Thơ văn Nguyễn Trãi kết tinh nhiều thành tựu nghệ thuật đặc sắc; góp phần quan trọng vào sự phát triển, hoàn thiện một số thể loại văn học trung đại Việt Nam: văn chính luận, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi, đặc biệt là những thư từ bút chiến, văn kiện ngoại giao với nhà Minh luôn đạt đến trình độ mẫu mục. Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách triệt để và sắc sảo các mệnh đề tư tưởng, đạo đức của Nho giáo và chân lí khách quan của đời sống để tạo dựng nền tảng chính nghĩa vững chắc cho những luận điểm lớn được nêu lên. Nhiều văn bản được mở đầu bằng triết lí nhân nghĩa: “Mưu tính việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, hoàn thành công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu.” (Lại thư trả lời Phương Chính – Quân trung từ mệnh tập) hoặc bằng những quy luật tất yếu: “Tôi nghe: Trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai, mặt trời mặt trăng không chiếu riêng ai.” (Lại thư cho Vương Thông – Quân trung từ mệnh tập). Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi còn được tạo nên nhờ khả năng bám sát từng đối tượng và tình hình thời sự, chiến sự; sự kết hợp giữa lí lẽ sắc bén với dẫn chứng xác đáng; cách lập luận và bố cục chặt chẽ; ngôn ngữ hàm súc, kết hợp nhiều phong cách ngôn ngữ và nhiều phương thức biểu đạt, giọng điệu truyền cảm. Lê Quý Đôn từng ca ngợi Nguyễn Trãi là cây bút viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hầu hết được sáng tác bằng các thể thơ Đường luật, đạt tới sự nhuần nhuyễn, điêu luyện; ngôn ngữ cô đúc; nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, tài hoa. Nghệ thuật trữ tình vẫn mang nét trang nhã, hàm súc “ý tại ngôn ngoại” của thơ cổ phương Đông nhưng không theo hướng cầu kì, khuôn thước. Ý tình trong nhiều bài thơ vừa in đậm dấu ấn cá nhân vừa có giá trị tư tưởng sâu sắc (Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Chu trung ngẫu thành, Tự thán, Thanh minh,...). Hình tượng thiên nhiên trong Ức Trai thi tập khi thì phóng khoáng, hùng vĩ, diễm lệ, khi thì thanh sơ, thơ mộng (Thần Phù hải khẩu, Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự, Vân Đồn, Tức hứng, Mộ xuân tức sự, Trại đầu xuân độ,...). Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi được đánh giá là đỉnh cao của dòng thơ quốc âm (tiếng Việt) thời trung đại. Trong Quốc âm thi tập, ông dường như đã có ý thức sáng tạo một thể thơ riêng khi đưa câu thơ lục ngôn(1) xen vào bài thơ thất ngôn ở các vị trí đa dạng, linh hoạt, đồng thời rất chú ý Việt hoá nhiều đề tài, thi liệu mượn từ văn học Trung Quốc. --------------------- (1) Lục ngôn: sáu tiếng. |
(Trang 10)
Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi giản dị, đậm đà tính dân tộc; sử dụng nhiều từ láy, thành ngữ, tục ngữ và lời ăn tiếng nói của dân chúng: Tay ai thì lại làm nuôi miệng. Làm biếng ngồi ăn lở núi non. (Bảo kính cảnh giới, bài 22 – Quốc âm thi tập)
Thơ văn Nguyễn Trãi xứng đáng là tập đại thành(1) của năm thế kỉ văn học trung đại Việt Nam tính đến mốc thế kỉ XV. Ông là tác gia có đóng góp đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền văn học Đại Việt sau thời gian nước ta bị quân xâm lược nhà Minh đô hộ và thi hành chính sách huỷ diệt văn hoá. |
Trả lời câu hỏi
1. Dựa vào những thông tin trong văn bản, hãy nêu ấn tượng sâu sắc nhất của bạn về cuộc đời và con người Nguyễn Trãi.
2. Điều gì đã tạo nên giá trị đặc sắc trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi?
3. Nêu cảm nhận của bạn về tâm hồn Nguyễn Trãi qua những bài thơ viết về thiên nhiên.
4. Đọc những vần thơ Nguyễn Trãi viết về nỗi niềm thế sự, bạn hình dung như thế nào về con người tác giả?
5. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đã từng thể hiện sức tác động mạnh mẽ như thế nào? Những yếu tố nào đã làm nên sức mạnh đó?
6. Hãy kể tên những tác phẩm văn học, nghệ thuật mà bạn biết nói về cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Trãi.
Kết nối đọc – viết
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) giới thiệu bài thơ đó.
-------------------------
(1) Tập đại thành: thành tựu lớn, có ý nghĩa tổng hợp, kết tinh nhiều phương diện giá trị.
(Trang 11)
VĂN BẢN 2
Bình Ngô đại cáo
(Đại cáo bình Ngô(*))
--------------------
Nguyễn Trãi
--------------------
• Bạn đã từng học, từng đọc những áng văn cổ Việt Nam nào được mệnh danh là “hùng văn”? Hãy chia sẻ thông tin khái quát về một trong số các tác phẩm ấy.
• Theo bạn, một tác phẩm được nhìn nhận là bản tuyên ngôn độc lập của một dân tộc thường ra đời trong hoàn cảnh nào và có những đặc điểm gì?
1 Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt(1) trước lo trừ bạo. Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến(2) đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần(3) bao đời gây nên độc lập, Cùng Hán, Đường Tống, Nguyên(4) mỗi bên xưng đế(5) một phương.
---------------------------- (*) Bình Ngô: dẹp tan giặc Ngô (bình: dẹp bằng, phá tan, làm cho yên ổn; Ngô: chỉ giặc Minh, từng sang xâm lược và cai trị nước ta). Người sáng lập nhà Minh (Trung Quốc) là Chu Nguyên Chương (1328 – 1398), tức Minh Thái Tổ, lúc dấy nghiệp ở đất Ngô, tự xưng là Ngô vương. Do đó, sách lịch sử cũng thường gọi nhà Minh là Ngô. (1) Điếu phạt: rút gọn cụm từ “điếu dân phạt tội” trong Kinh thư (tức Thượng thư), nói việc vua Thang, vua Vũ vì thương xót (điếu) nhân dân mà trừng trị (phạt) kẻ có tội là vua Kiệt, vua Trụ. (2) Văn hiến: ở đây chỉ chung nền văn hoá lâu đời, có nhân vật anh hùng, có sử sách ghi chép lại quá trình hình thành và phát triển của dân tộc (văn: tư liệu lịch sử, văn hoá thành văn; hiến: hiền tài). (3) Triệu, Đinh, Lý, Trần: các thời kì, triều đại nối tiếp nhau xây dựng nền tự chủ Đại Việt: Triệu (207 – 111 trước Công nguyên), Đinh (968 –979), Lý (1010 – 1224), Trần (1125 – 1399). Một số bộ sử cũ đã xem nhà Triệu là một triều đại của lịch sử Việt Nam và xếp triều đại này vào thời kì tự chủ. (4) Hán, Đường, Tống, Nguyên: các triều đại trong lịch sử Trung Quốc, gần tương ứng với các thời kì, triều đại trong lịch sử Việt Nam ở trên: Hán (204 trước Công nguyên – 220), Đường (618 – 907), Tống (960 – 1279), Nguyên (1280 – 1378). (5) Đế: quốc gia độc lập, tự chủ, vua xưng là đế hay hoàng đế. Từ sau khi nhà Tần (Trung Quốc) thống nhất Trung Quốc và xưng Tần Thuỷ hoàng đế, chữ đế dần có hàm nghĩa phân biệt với vương, chỉ vua chư hầu. Trong nguyên văn, chữ đế được sử dụng như động từ, thể hiện tư tưởng xác lập thể chế nhà nước tự chủ. |
(Trang 12)
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt(1) đời nào cũng có. Vậy nên: Lưu Cung(2) tham công nên thất bại, Triệu Tiết(3) thích lớn phải tiêu vong. Cửa Hàm Tử(4) bắt sống Toa Đô(5), Sông Bạch Đằng(6) giết tươi Ô Mã(7). Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi. 2 Vừa rồi: Nhân họ Hồ(8) chính sự(9) phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ Bọn gian tà bán nước cầu vinh. Vùi con đỏ(11) xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế, Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
--------------------------------- (1) Hào kiệt: chỉ chung những bậc anh hùng xuất chúng, có công trạng lớn đối với quốc gia (hào: tài trí hơn người; kiệt: giỏi giang, kiệt xuất). (2) Lưu Cung: vua Nam Hán, sai con là Lưu Hoằng Thao đem quân sang xâm lược nước ta, bị Ngô Quyền đánh bại và giết chết ở sông Bạch Đằng. (3) Triệu Tiết: tướng nhà Tống, từng mang quân xâm lược nước ta, bị Lý Thường Kiệt đánh bại. (4) Hàm Tử: một địa điểm trên sông Hồng, nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trần Nhật Duật phối hợp cùng Trần Quốc Toản đã đại phá quân Toa Đô ở đây. (5) Toa Đô: tướng nhà Nguyên, mang quân xâm lược nước ta, bị quân dân nhà Trần đánh bại. Theo nhiều tài liệu sử học thì Toa Đô bị giết chết ở trận Tây Kết (Hưng Yên) chứ không phải ở Hàm Tử. (6) Bạch Đằng: sông chảy giữa Quảng Ninh và Hải Phòng. Sông Bạch Đằng gắn liền với nhiều chiến công của quân dân Đại Việt chống kẻ thù xâm lược phương Bắc trong lịch sử. (7) Ô Mã: tức Ô Mã Nhi, tướng nhà Nguyên, bị quân dân nhà Trần đánh bại ở trận Bạch Đằng. (8) Hôồ: tên một triều đại trong lịch sử Việt Nam (1400 1407). Sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Trần, Hồ Quý Ly lên ngôi, lập ra triều Hồ và đổi quốc hiệu Đại Việt thành Đại Ngu. Năm 1406, nhà Minh mượn cớ “phù Trần diệt Hồ” kéo quân sang xâm lược nước ta. (9) Chính sự. việc chính trị, các chính sách và chế độ quản lí đất nước của một quốc gia. (10) Dân đen: dịch chữ thương sinh (dân sống dưới bầu trời xanh), chỉ người dân bình thường. (11) Con đỏ: dịch chữ xích tử, ý nói con mới đẻ ra còn đỏ, cần nâng niu, nuôi nấng. Lấy ý câu trong sách Thượng thư. “Người làm vua phải bảo vệ nhân dân như bảo vệ con đỏ của mình”. |
(Trang 13)
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt chim trả(1), chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen(2), nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn(3) không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải(4) không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được?
3 Ta đây: Núi Lam Sơn(5) dấy nghĩa, Chốn hoang dã nương mình. Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống. Đau lòng nhức óc(6), chốc đà mười mấy năm trời; Nếm mật nằm gai(7), há phải một hai sớm tối.
-------------------------------------- (5) Lam Sơn: tên một vùng thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá; là vùng rừng núi nơi Lê Lợi dấy quân khởi nghĩa, lịch sử vẫn gọi là khởi nghĩa Lam Sơn. (6) Đau lòng nhức óc (nguyên văn: thống tâm tật thủ): chữ mượn từ sách Tả truyện, ý nói căm giận vô cùng. (7) Nếm mật nằm gai (nguyên văn: thường đảm ngoạ tân): nếm mật đẳng, nằm trên gai, dẫn điển vua nước Việt đời Đông Chu là Câu Tiễn bị vua nước Ngô là Phù Sai cướp nước, bèn nuôi chí phục thù, trước khi ăn thì nếm mật đắng, khi ngủ thì nằm trên gai để không quên mối thù cũ. |
(Trang 14)
Quên ăn(1) vì giận, sách lược thao(2) suy xét đã tinh; Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế(3) đắn đo càng kĩ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi(4). Vừa khi cờ nghĩa dấy lên(5), Chính lúc quân thù đương mạnh. Lại ngặt vì: Tuấn kiệt(6) như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu(7) thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác(8) hiếm người bàn bạc. Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông(9), Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả(10). Thế mà: Trông người người càng vắng bóng mịt mù như nhìn chốn bể khơi, Tự ta, ta phải dốc lòng(11), vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
------------------------------ (2) Lược thao: phép tắc và mưu chước dụng binh, đây là cách gọi ghép hai từ lục thao và tam lược. Lục thao là tên một cuốn sách dạy về quân sự tương truyền do Lã Vọng đời Chu soạn, gồm sáu thiên; tam lược là tên một cuốn sách do Hoàng Thạch Công soạn, gồm ba phần. (3) Hưng phế: sự nổi lên (hưng) và mất đi (vong, phế) của các triều đại. (4) Đồ hồi: mưu tính khôi phục lại cơ đồ cũ (đồ: mưu tính; hồi: quay trở lại). (5) Cờ nghĩa dấy lên: phất cờ hiệu triệu nhân dân đứng lên đấu tranh bảo vệ chính nghĩa. (6) Tuấn kiệt: nhân tài, hào kiệt, chỉ các bậc anh hùng tài giỏi. Ý cả hai câu này: bậc anh hùng xuất hiện ít (như sao buổi sớm), người tài giỏi hiếm hoi (như lá trên cành vào mùa thu). (7) Bôn tẩu: bôn ba, chạy vạy lo toan công việc (bôn: đi vội vã; tẩu: chạy). (8) Duy ác: ngày xưa, tướng chỉ huy ra trận thường quây màn làm nơi bàn luận và quyết định chiến sự, do đó duy ác được dùng để chỉ bộ chỉ huy. (9) Tiến về đông: mượn chữ từ một câu nói của Lưu Bang (Hán Cao tổ) với Tiêu Hà khi bị Hạng Vũ ép dồn về phía Tây: “Dư diệc dục đông hĩ, an năng uất uất cừu cư ư thử” (Ta cũng muốn tiến về phía đông chứ sao có thể rầu rĩ ở mãi chốn này được). Ở đây, tác giả dùng chữ trên tỏ ý muốn (từ phía tây – Lam Sơn) tiến về Đông Đô – Thăng Long, lúc này đang bị giặc Minh chiếm đóng. (10) Dành phía tả: dẫn điển Tín Lăng Quân nước Nguỵ thời Đông Chu, nghe tiếng Hầu Doanh là hiền sĩ liền đem xe đi đón, tự ngồi bên phải giữ cương ngựa, dành chỗ bên trái là chỗ tôn quý để Hầu Doanh ngồi. (11) Tự ta, ta phải dốc lòng: dịch cụm từ do kỉ chi thành (do lòng thành thực của mình), ý nói lòng thành thực muốn làm điều nhân, dẫn ý câu trong Luận ngữ. “vi nhân do kỉ nhi do nhân hồ tai” (làm điều nhân phải do mình chứ đâu phải do người khác). |
(Trang 15)
Phần thì lo vận nước khó khăn. Khi Linh Sơn(1) lương hết mấy tuần, Khi Khôi Huyện(2) quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn, Ta gắng chí khắc phục gian nan. Nhân dân(3) bốn cõi một nhà, dựng cần trúc(4) ngọn cờ phấp phới; Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào(5). Thế trận xuất kì(6), lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
4 Trọn hay: Đem đại nghĩa(7) để thắng hung tàn, Lấy chí nhân(8) để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng(9) sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân(10) trúc chẻ tro bay(11). Sĩ khí(12) đã hăng Quân thanh(13) càng mạnh.
----------------------------------- (2) Khôi Huyện: tên một huyện ở đầu thế kỉ XV (huyện Khôi), nay thuộc vùng giáp ranh của ba tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình và Hoà Bình. (3) Nhân dân (nguyên văn: manh lệ): chỉ chung dân chúng khốn cùng tụ họp dưới ngọn cờ nghĩa, (manh: dân nghèo bị tước mất ruộng đất phải tha phương cầu thực; lệ: nô lệ). Ý văn thể hiện sâu sắc quan niệm về “dân” của Nguyễn Trãi. (4) Dựng cần trúc: dịch cụm từ yết can vi kì (giơ gậy lên làm cờ), mượn tích Hoàng Sào lúc mới dấy binh khởi nghĩa không kịp làm cờ phải giơ sào lên thay; bài Quá Tần luận của Giả Nghị đời Hán cũng có câu: “trảm mộc vi binh, yết can vi kì” (chặt gỗ làm khí giới, giơ sào lên làm cờ). (5) Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào: dịch cụm từ đầu giao hưởng sĩ (đổ rượu ngọt xuống sông để khao quân). Dẫn điển xưa nói việc nước Tấn và nước Sở đánh nhau, có người dâng vua Sở một bình rượu ngon, vua Sở sai đổ rượu xuống sông để quân sĩ đón dòng mà uống, sau Sở đánh thắng Tấn. Câu này ý tác giả muốn nói, tướng lĩnh và nghĩa binh Lam Sơn có lòng thương yêu nhau như cha với con (tướng sĩ một lòng phụ tử). (6) Xuất kì: bất thình lình, bất ngờ, chỉ việc bày quân mai phục để bất ngờ tiến đánh. (7), (8) Đại nghĩa: nghĩa lớn. Chi nhân: lòng nhân ái tột bậc. Ý hai câu này thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của một đội quân chính nghĩa. (9) Bồ Đằng: tên một ngọn núi, còn gọi là Bồ Liệp hay Bồ Cứ thuộc huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1425, Lê Lợi đánh thắng quân Minh ở đây. (10) Trà Lân: còn có tên là Trà Long, nay thuộc hai huyện Tương Dương và Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An và cuối năm ấy hạ thành Trà Long, đây là chiến thắng lớn đầu tiên. (11) Trúc chẻ tro bay: dịch cụm từ trúc phá hôi phi, ý nói bị tơi bời, tan tác một cách dễ dàng. Thành ngữ thường nói “thế như chẻ tre”, ý nói tre bị chẻ ở một đầu rồi thì cả cây sẽ bị chẻ ra dễ dàng. Trong thơ văn cổ, hôi phi hay phi hôi (tro bay) thường có nghĩa là dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng. (12) Sĩ khí: khí thế của binh sĩ, quân đội. (13) Quân thanh: thanh thế của quân đội. |
(Trang 16)
Trần Trí(1), Sơn Thọ(2) nghe hơi mà mất vía, Lý An(3), Phương Chính(4) nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh(5) quân ta chiếm lại; Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô(6) đất cũ thu về. Ninh Kiều(7) máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm; Tốt Động(8) thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm(9) quân giặc, Trần Hiệp(10) đã phải bêu đầu; Một gian kẻ thù, Lý Lượng(11) cũng đành bỏ mạng. Vương Thông(12) gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy; Mã Anh(13) cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt; Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công(14). Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ; Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác; Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
------------------------------- (1), (2) Trần Trí, Sơn Thọ: Trần Trí là một viên tổng binh của quân Minh; Sơn Thọ là nội quan của nhà Minh, được Minh Nhân Tông lệnh mang sắc sang phong Lê Lợi làm Tri phủ Thanh Hoá để hòng mua chuộc. (3), (4) Lý An, Phương Chính: Lý An là tướng giặc Minh, được giao đóng giữ thành Nghệ An; Phương Chính là Đô đốc của nhà Minh, đóng quân ở Thanh Hoá. Cả hai viên tướng này đều bị quân ta đánh bại nhiều lần. (5) Tây Kinh: chỉ thành nhà Hồ, còn gọi là thành Tây Giai, nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. (6) Đông Đô: tên gọi của thành Thăng Long từ năm 1397 (thời Trần Phế Đế) tới năm 1430 (thời Lê Thái Tổ), để phân biệt với kinh đô mới ở Thanh Hoá (gọi là Tây Đô). Thời thuộc Minh, Đông Đô còn gọi là Đông Quan. (7) Ninh Kiều: một địa điểm có sông Ninh Giang chảy qua, nay thuộc huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Năm 1429, nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Đông Đô, đặt phục binh ở Chúc Động, Tốt Động tiêu diệt phần lớn sinh lực trong đạo viện binh của Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, giết được Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng, bắt sống hơn một vạn quân giặc. (8) Tốt Động: có sách chép là Tuỵ Động, thuộc huyện Mỹ Lương, tỉnh Hà Đông cũ (nay là huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Tháng Mười năm Bính Ngọ (1426), giặc Minh thua to ở đây. (9) Phúc tâm: kẻ thân tín (phúc: bụng; tâm: tim, lòng). (10), (11) Trần Hiệp, Lý Lượng: Trần Hiệp là Thượng thư nhà Minh; Lý Lượng là Nội quan nhà Minh. (12), (13) Vương Thông, Mã Anh: các viên tướng nhà Minh. Vương Thông được giao chức Tổng binh, cùng Tham tướng Mã Anh đem năm vạn quân sang Đại Việt cứu viện để thay Tham tướng Trần Trí và Đô đốc Phương Chính chỉ huy quân Minh đánh nước ta. (14) Mưu phạt, tâm công: đánh bằng mưu lược, đánh bằng tấm lòng nhân nghĩa. |
(Trang 17)
Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên Đức(1), động binh không ngừng; Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng(2), đem dầu chữa cháy. Đinh Mùi tháng Chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn(3) tiến lại; Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam(4) tiến sang; Ta trước đã điều binh thủ hiểm(5), chặt mũi tiên phong(6); Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực. Ngày mười tám, trận Chi Lăng(7), Liễu Thăng thất thế, Ngày hai mươi, trận Mã An(8), Liễu Thăng cụt đầu, Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh(9) bại trận tử vong, Ngày hăm tám, Thượng thư Lý Khánh(10) cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá(11), Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau(12). Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng Mười diệt giặc. Sĩ tốt(13) kén người hùng hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh(14).
----------------------------- (1) Tuyên Đức: tức vua Tuyên Tông nhà Minh, lên ngôi năm 1425, lấy hiệu là Tuyên Đức. (2) Thạnh, Thăng: Mộc Thạnh và Liễu Thăng. Mộc Thạnh là đại thần của nhà Minh, cai quản vùng Vân Nam, được giữ chức Chinh Nam tướng quân, đem năm vạn quân sang nước ta cứu viện Vương Thông theo ngả Lào Cai. Liễu Thăng tước An viễn hầu, được giao làm Tổng binh chỉ huy đạo viện binh mười vạn quân sang nước ta theo đường Lạng Sơn, bị nghĩa quân Lam Sơn giết ở núi Đảo Mã, nay thuộc tỉnh Lạng Sơn. (3) Khâu Ôn: một địa danh nay thuộc phía bắc tỉnh Lạng Sơn, giáp biên giới Việt Nam – Trung Quốc. (4) Vân Nam: một tỉnh của Trung Quốc, giáp với tỉnh Lào Cai của Việt Nam. (5) Thủ hiểm: trấn giữ nơi hiểm trở. (6) Tiên phong: đội quân đi trước, có nhiệm vụ vừa đánh vừa thăm dò lực lượng đối phương. (7) Chi Lăng: tên một cửa ải hiểm trở thuộc tỉnh Lạng Sơn, nơi từng ghi dấu nhiều chiến công hiển hách của quân dân Đại Việt chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. (8) Mã An: tức núi Đảo Mã, thuộc tỉnh Lạng Sơn. Theo sách Minh sử, Liễu Thăng đem viện binh sang nước ta, có ý kiêu căng, đến dốc Đảo Mã cùng 100 kị binh qua cầu, cầu sập, phục binh bốn phía nổi dậy, Liễu Thăng sa vào bùn rồi bị trúng thương mà chết. (9) Lương Minh: tướng giặc, được phong tước Bảo Định bá, giữ chức Tả phó Tổng binh của Liễu Thăng, tử trận cùng ngày với Liễu Thăng. (10) Lý Khánh: giữ chức Binh bộ Thượng thư của nhà Minh, sang nước ta đảm nhiệm phụ trách quân vụ và kiêm chức ngự sử. Minh sử cho biết Lý Khánh tử trận liền sau ngày Lương Minh và Liễu Thăng tử trận. (11) Lưỡi dao tung phá: dịch cụm từ nghênh nhận nhi giải (đón lưỡi dao mà tự vỡ ra). Truyện Đỗ Dự trong sách Tấn thư có câu: “nay binh uy đã vang dậy, thế như chẻ tre, đã chẻ được mấy đốt thì cứ đưa dao đi đến đâu là tre vỡ đến đấy”. Ý muốn nói quân ta thừa cơ tiến đánh làm cho giặc tan rã như tre bị chẻ. (12) Quay mũi giáo đánh nhau: dịch cụm từ đảo qua tương công (quay ngược ngọn giáo lại đâm nhau). Thiên Vũ Thành sách Thượng thư có câu: “... quân trước quay giáo lại đâm quân sau mà thua”, tả việc tiền quân của Trụ quay giáo tự đánh lẫn nhau mà thua Chu Vũ Vương. (13) Sĩ tốt: binh lính nói chung. (14) Vuốt nanh: chỉ người giỏi chiến đấu được tập hợp quanh thủ lĩnh để tạo thêm sức mạnh. |
(Trang 18)
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc(1), Đánh hai trận, tan tác chim muông. Nổi gió to trút sạch lá khô Thông tổ kiến phá toang đê vỡ(2). Đô đốc Thôi Tự(3) lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc(4) trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang(5), Lạng Sơn, thây chất đầy đường; Xương Giang, Bình Than(6), máu trôi đỏ nước. Ghê gớm thay sắc phong vân(7) phải đổi, Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt(8) phải mờ. Bị ta chẹn ở Lê Hoa(9), quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật; Thua quân ta ở Cần Trạm(10), quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày(11), nước sông nghẹn ngào tiếng khóc; Thành Đan Xá(12) thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
---------------------------- (1) Đánh một trận, sạch không kình ngạch! Đánh hai trận, tan tác chim muông: nội dung hai câu diễn tả sức mạnh bão táp của quân khởi nghĩa (kình: cá voi, ngạc: cá sấu). (2) Thông tổ kiến phá toang đê vỡ (nguyên văn: quyết hội nghĩ ư băng đế): tổ kiến hổng bị cuốn trôi lúc con đê đã vỡ. Câu này đối với câu trên, ý nói tình thế giặc như lá khô trước cơn gió cơn gió mạnh, như tổ kiến bị quét đi khi đê vỡ. (3), (4) Thôi Tụ, Hoàng Phúc: Đô đốc Thôi Tụ làm Hữu tham tưởng của Liễu Thăng, cùng với Công bộ Thượng thư Hoàng Phúc đều bị bắt sống. Sau khi thua ở Chi Lăng, bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ phải thu quân về Xương Giang nhưng thành này đã bị hạ, chúng phải đóng quân ở giữa cánh đồng, đắp luỹ tự vệ, nhưng rốt cục đại bại. (5) Lạng Giang: nay là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, tiếp giáp với tỉnh Lạng Sơn. (6) Xương Giang, Bình Than: Xương Giang nay thuộc địa phận thành phố Bắc Giang; Bình Than là tên một bãi sông lớn ở phía dưới bến đò Phả Lại ngày nay. (7) Phong vân: gió (phong) và mây (vân). (8) Nhật nguyệt: mặt trời (nhật) và mặt trăng (nguyệt). (9) Lê Hoa: một cửa ải xưa nằm giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). (10) Cần Trạm: vùng ở gần Kép – Bắc Giang, nằm giữa ải Chi Lăng và thành Xương Giang. Mộc Thạnh đóng ở Lê Hoa cho Liễu Thăng đánh vào Chi Lăng. Thăng chết trận, phó tướng là Lương Minh đưa tàn binh tiến vào Cần Trạm rồi chết ở đây. (11) Máu chảy trôi chày (nguyên văn: huyết chử phiêu): rút ý từ thành ngữ huyết lưu phiêu chử, có xuất xứ từ Kinh thư, diễn đạt sự thảm khốc của chiến tranh. Chử trong nguyên văn bài cáo thường được giải thích có hai nghĩa: (1) cái chày để giã gạo hoặc chày để đập giặt quần áo; (2) một loại vũ khí thời xưa hoặc cái mộc, cái khiên của binh lính. Trong trường hợp này, nghĩa thứ hai phù hợp với văn bản hơn. (12) Lãnh Câu, Đan Xá: những địa điểm gần Lê Hoa, Cao Trại, Thuỷ Vĩ xưa, đều thuộc địa bàn tỉnh Lào Cai, giáp ranh giữa tỉnh Vân Nam và nước ta. Lãnh Câu, Đan Xá là nơi từng xảy ra những cuộc huyết chiến giữa nghĩa quân Lam Sơn (do các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả,... lãnh đạo) và giặc Minh (do Mộc Thạnh chỉ huy). |
(Trang 19)
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp; Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng. Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần vũ chẳng giết hại(1), thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh(2) . Mã Kỳ(3), Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc; Vương Thông, Mã Anh(4), phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng; Ta lấy toàn quân là hơn(5), để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu, Cũng là chưa thấy xưa nay. 5 Xã tắc(6) từ đây vững bền, Giang sơn từ đây đổi mới. Kiền khôn bĩ rồi lại thái(7), Nhật nguyệt hối rồi lại minh(8). Muôn thuở nền thái bình vững chắc, Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu. Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy(9).
--------------------------- (1) Thần vũ chẳng giết hại: uy vũ như thánh như thần mà không chém giết, mượn chữ từ câu trong Kinh dịch: “Cổ chi thông minh duệ trí thần vũ nhi bất sát giả phù” (Các bậc anh hùng thông minh sáng suốt đời xưa có uy võ như thần mà chẳng giết hại người vậy). (2) Hiếu sinh: thương yêu con người và loài vật. Kinh thư có câu: “Hiếu sinh chi đức hiệp vu dân tâm” (Đức hiếu sinh của trời hợp với lòng dân). (3), (4) Mã Kỳ, Mã Anh: các tướng lĩnh của nhà Minh, chịu đầu hàng Lê Lợi. Sau chiến thắng Chi Lăng, quân giặc các nơi khiếp sợ đầu hàng, Vương Thông xin hẹn ngày rút quân. Thuỷ binh do Phương Chính, Mã Kỳ thống lĩnh được Lê Lợi cấp 500 chiến thuyền để về nước, bộ binh do Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ, Hoàng Phúc thống lĩnh cũng được Lê Lợi cấp lương thực và ngựa. (5) Toàn quân là hơn (dịch cụm từ toàn quân vi thượng): bảo toàn quân đội địch mà bắt chúng thua là thượng sách. Tư tưởng này được Nguyễn Trãi tiếp thu từ sách Tôn Tử (thiên Mưu công). (6) Xã tắc: chỉ quốc gia, đất nước (xã: nơi tế thần đất; tắc: vốn là tên Thần Nông (Hậu Tắc), sau dùng chỉ nơi tế Thần Nông để cầu cho mùa màng tươi tốt). Nước nhà muốn thịnh vượng phải làm cho dân an cư lạc nghiệp, vì vậy khi dựng nước trước hết phải lập xã tắc, cũng vì thế mà xã tắc tượng trưng cho quốc gia. (7) Kiền (càn), khôn, bĩ, thái: tên các quẻ trong Kinh dịch. Quẻ kiền chỉ trời, khí dương; quẻ khôn chỉ đất, khí âm. Kiền và khôn ghép với nhau để chỉ chung trời đất. Quẻ bĩ có hình tượng khí dương đè nén khí âm, biểu thị ý nghĩa không được tự do phát triển, bế tắc, không thông thuận; quẻ thái có hình tượng khí âm trỗi vượt lên trên khí dương, biểu thị ý nghĩa không bị đè nén, được tự do phát triển, thông thuận. Ý cả câu: trời đất đang tắc nghẽn lại được hanh thông. (8) Hối, minh: tối tăm (hối) và sáng sủa (minh). (9) Ý câu này trong nguyên văn như sau: có được thắng lợi này cũng là nhờ khí thiêng trời đất âm thầm giúp đỡ, anh linh tổ tông ngầm phù trợ. |
(Trang 20)
Than ôi! Một cỗ nhung y(1) chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm; Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân(2) khắp chốn. Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay. (Bản dịch của Bùi Ki, in trong Ngữ văn 10, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17 – 22) |
Cuối năm 1427, cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm được ban bố vào tháng Chạp năm Đinh Mùi (đầu năm 1428 dương lịch). Có thể xem đây là văn kiện chính trị tổng kết đầy đủ nhất về quá trình kháng chiến oanh liệt chống giặc Minh và toàn bộ tư tưởng về chủ quyền đất nước, về nền độc lập dân tộc. Vì thế, tác phẩm mang tính chất của một bản tuyên ngôn mở đầu cho một triều đại mới, một kỉ nguyên mới của đất nước. | Phần đầu văn bản Bình Ngô đại cáo |
Cáo là một thể văn hành chính cổ, có nguồn gốc từ Thượng thư (Trung Quốc), do nhà vua hoặc chủ tướng ban bố một mệnh lệnh, chủ trương, chính sách,... cho toàn dân chúng được biết. Căn cứ vào nội dung, mục đích, phạm vi ban bố, thể văn cáo có thể phân thành nhiều loại, nhưng nhìn chung, đều có ý nghĩa tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia. Cáo có thể viết bằng văn xuôi, văn vần, biền văn (văn biền ngẫu). Tác phẩm cáo nói chung thường có lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, ý tứ hùng hồn, hàm ý mệnh lệnh.
Bình Ngô đại cáo là tác phẩm chính luận quan trọng, có giá trị lớn về văn hoá, lịch sử, chính trị, quân sự, văn học, ngôn ngữ,... được mệnh danh là áng “thiên cổ hùng văn”. Tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực của nghệ thuật ngôn từ, với lập luận chặt chẽ, âm hưởng hào hùng, ý tứ
-------------------------
(1) Nhung y: áo giáp, áo mặc khi ra trận. Một cỗ nhung y chiến thắng (nhất nhung đại định) xuất xứ từ câu trong thiên Vũ Thành, sách Thượng thư: nhất nhung y nhi thiên hạ đại định (chỉ một chiếc áo giáp mà bình định được cả thiên hạ).
(2) Duy tân: theo cái mới. Thiên Văn Vương trong Kinh thi có câu: “Chu tuy cựu bang, kì mệnh duy tân” (nhà Chu tuy là nước cũ (nhưng đến Văn Vương) mệnh trời mới thật là mới).
(Trang 21)
biện luận sâu xa,... Sự kết hợp nhuần nhuyễn nhiều bút pháp – phong cách ngôn ngữ như chính luận, tự sự, biểu cảm; sự hoà quyện giữa tính chân thực lịch sử với chất sử thi anh hùng ca,... đã làm nên tính hấp dẫn vượt thời đại của tác phẩm.
Bình Ngô đại cáo được viết theo thể biền văn, theo kiểu văn tứ lục biến cách (thể văn tứ lục: dùng các câu ngắt quãng 4/6 chữ để nối nhau; văn tứ lục có thể biến cách thành các kiểu đối 4/4 – 4/4 hoặc 6/6 – 6/6;...). Tác phẩm được viết với bút pháp đa dạng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, có tính biểu cảm cao. Vì vậy, Bình Ngô đại cáo không chỉ ảnh hưởng sâu xa đến tư tưởng, ý thức mà còn tác động mạnh mẽ đến tình cảm, cảm xúc của người tiếp nhận.
Văn bản Bình Ngô đại cáo được truyền chép trong nhiều tư liệu. Tuy giữa các bản chép có những sai biệt nhất định về câu chữ, nhưng tính chân thực, sự trọn vẹn về nội dung của văn bản vẫn được thể hiện rõ.
Trả lời câu hỏi
1. Căn cứ vào nội dung bài học và hiểu biết của mình, hãy cho biết: tư cách phát ngôn của Nguyễn Trãi khi viết Bình Ngô đại cáo, sự kiện lịch sử được tái hiện và bàn luận trong tác phẩm, mục đích viết và đối tượng tác động của bài cáo.
2. Xác định luận đề của văn bản và nêu lí do vì sao bạn xác định như vậy.
3. Theo bạn, trong đoạn 1 của văn bản, câu văn nào thể hiện rõ nhất mục đích của việc thực thi lí tưởng nhân nghĩa?
4. Hãy khái quát nội dung của các đoạn từ 2 đến 5 và cho biết chức năng của mỗi đoạn trong mạch lập luận.
5. Nêu nhận xét chung về nghệ thuật lập luận của tác giả trong toàn tác phẩm.
6. Hãy chỉ ra yếu tố biểu cảm trong văn bản. Theo bạn, yếu tố này có thể đem lại hiệu quả gì trong việc thuyết phục người đọc, người nghe?
7. Bình Ngô đại cáo được đánh giá là một áng hùng văn. Theo bạn, những căn cứ chính của đánh giá đó là gì?
8. Nêu khái quát ý nghĩa của Bình Ngô đại cáo đặt trong bối cảnh lịch sử – văn hoá cụ thể của nước ta ở đầu thế kỉ XV.
Kết nối đọc – viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) về một trong hai vấn đề sau:
– Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa thể hiện trong đoạn 1 của văn bản.
– Tinh thần độc lập, ý thức về chủ quyền dân tộc được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo.
(Trang 22)
VĂN BẢN 3
Bảo kính cảnh giới
(Gương báu răn mình)
(Bài 43)
-------------
Nguyễn Trãi
-------------
• Hãy kể tên một vài bài thơ viết theo thể Đường luật mà bạn đã học hoặc đã đọc.
• Chỉ ra một số đặc điểm hình thức giúp bạn nhận diện được thể loại của các bài thơ đó.
Rồi(1) hóng mát thuở ngày trường(2). Hoè(3) lục(4) đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu(5) hiên còn phun thúc(6) đỏ. Hồng liên(7) trì đã tịn(8) mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ; Lẽ có(12) Ngu cầm(13) đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương(14).
(Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 453) -------------------------- (1) Rồi: rỗi rãi, thư nhàn. (2) Trường: dài. (3) Hoè: loại cây thân gỗ, hoa màu vàng, nở vào mùa hè. (4) Lục: màu xanh lá cây. (5) Thạch lựu: cây lựu, hoa màu đỏ, nở vào mùa hè. (6) Thức: màu, dáng vẻ. (7) Hồng liên: sen hồng. (8) Tịn (từ cổ, có bản chép tiễn, tạn): hết, đến hết. (9) Dắng dỏi: từ láy tượng thanh, tả âm thanh trong, cao, rộn rã. (10) Cầm ve: tiếng ve kêu như tiếng đàn. (11) Tịch dương: bóng chiều, ánh hoàng hôn. (12) Lẽ có (có bản phiên dẽ có): mong được có, lẽ nên có. (13) Ngu cầm: đàn của vua Ngu Thuấn. Tương truyền vua Thuấn được vua Nghiêu ban cho cây đàn, khi rỗi rãi thường gảy khúc Nam phong. “Gió Nam mát mẻ/ Làm cho dân ta bớt ưu phiền/ Gió Nam thổi đúng lúc/ Làm cho dân ta ngày thêm nhiều của cải”. (14) Đòi phương: nhiều nơi, khắp nơi. |
(Trang 23)
Bảo kính cảnh giới là chùm thơ gồm 61 bài trong tổng số 254 bài của Quốc âm thi tập. Hầu hết các bài trong chùm thơ này đều mang nội dung giáo huấn và chứa đựng nhiều trăn trở, suy tư về thế sự. Chùm thơ cũng ghi lại những khoảnh khắc thư nhàn khi tác giả lánh xa chốn quan trường, hoà mình với thiên nhiên và nhịp sống bình dị, bình yên nơi thôn dã: Chân mềm ngại bước dặm mây xanh(1)/ Quê cũ tìm về cảnh cũ thanh (bài 31); Đìa thanh, cá lội, in vầng nguyệt/ Cây tĩnh, chim về, rợp bóng xuân (bài 38);...
Chùm thơ Bảo kính cảnh giới không chỉ thể hiện tư tưởng, nhân cách của một bậc lương thần chưa bao giờ nguôi nỗi lo dân, nước mà còn phản chiếu những vẻ đẹp phong phú của một tâm hồn nghệ sĩ.
Thơ Nôm Đường luật là loại thơ được sáng tác theo thể Đường luật, viết bằng chữ Nôm, hình thành vào khoảng thế kỉ XIII. Có thể xem đây là một “lối thơ riêng” do các tác giả trung đại Việt Nam sáng tạo dựa trên mô hình của thơ Đường luật, trong đó có nhiều cách tân về đề tài, thi liệu, cảm hứng, bút pháp, ngôn ngữ thơ.
Qua các chặng đường phát triển, thơ Nôm Đường luật đã đạt được những thành tựu lớn, góp phần quan trọng vào việc tạo nên diện mạo của nền thơ trung đại Việt Nam. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, đánh dấu bước khởi đầu đẹp đẽ của nền thơ tiếng Việt thời trung đại.
Trả lời câu hỏi
1. Xác định thể loại và nêu bố cục của bài thơ.
2. Câu thơ mở đầu cho biết điều gì về cuộc sống và tâm trạng của nhân vật trữ tình?
3. Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng để miêu tả cảnh sắc mùa hè. Từ đó, chỉ ra những nét đặc sắc trong cách cảm nhận thiên nhiên và bút pháp tả cảnh của tác giả.
4. Cuộc sống của con người được nhà thơ tái hiện qua những âm thanh, hình ảnh nào? Phân tích mối liên hệ giữa khung cảnh ấy với ước nguyện của nhân vật trữ tình trong hai câu thơ cuối.
5. Nhận xét về vị trí và giá trị của các câu lục ngôn trong bài thơ.
6. Đọc bài thơ, bạn cảm nhận được điều gì về vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng của tác giả?
Kết nối đọc – viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một yếu tố “phá cách” trong Bảo kính
cảnh giới, bài 43.
------------------------------------
(1) Mây xanh: ẩn dụ chỉ chốn công danh, chốn quan trường (từ Hán Việt là thanh vân).
(Trang 24)
VĂN BẢN 4
Dục Thuý sơn
(Núi Dục Thuý(*))
-------------
Nguyễn Trãi
-------------
• Hãy kể một vài địa danh của đất nước từng khơi nguồn cảm hứng cho thơ ca.
• Chia sẻ ngắn gọn ấn tượng của bạn về một bài thơ thể hiện cảm hứng ấy.
Phiên âm Hải khẩu hữu tiên san; Tiền miên lũ vãng hoàn. Liên hoa phù thuỷ thượng; Tiên cảnh truy trần gian. Tháp ảnh trâm thanh ngọc; Ba quang kính thuỷ hoàn. Hữu hoài Trương Thiếu bảo; Bi khắc tiển hoa ban. Dịch nghĩa Cửa biển có ngọn núi tiền; Năm xưa ta đã nhiều lần qua lại nơi này. Dáng núi như đoá hoa sen nổi trên mặt nước; Tưởng như là cõi tiên rơi xuống trần gian. Bóng tháp trên núi soi xuống mặt nước giống như cái trâm ngọc xanh; Ánh sáng của sóng nước phản chiếu ngọn núi như đang soi mái tóc biếc. Chạnh nhớ Trương Thiếu bảo(1); Bia đá khắc thơ văn của ông nay đã lốm đốm rêu. ------------------------- (*) Núi Dục Thuý: còn có tên gọi là núi Non Nước ở tỉnh Ninh Bình; tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt, dựa trên liên tưởng dáng núi trong khung cảnh sông nước giống như con chim trả (bói cá) đang tắm (dục: tắm; thuý: chim trả; thuỷ còn có nghĩa khác là màu xanh biếc). Núi Dục Thuý từng được mệnh danh là “núi thơ” vì đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều thi nhân: Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Thiệu Trị, Tự Đức, Cao Bá Quát, Tản Đà,... (1) Trương Thiếu bảo: tức Trương Hán Siêu (? – 1354), tự Thăng Phủ, người Trường Yên, tỉnh Ninh Bình; là danh sĩ đời Trần, được nhiều đời vua Trần trọng dụng; làm quan trải nhiều chức vụ, khi mất, được truy tặng chức Thái bảo và được thờ ở Văn Miếu (Hà Nội); tác giả của bài Bạch Đằng giang phú (Bài phú sông Bạch Đằng) nổi tiếng. |
(Trang 25)
Dịch thơ Cửa biển có non tiên; Từng qua lại mấy phen. Cảnh tiên rơi cõi tục; Mặt nước nổi hoa sen. Bóng tháp hình trâm ngọc; Gương sông ánh tóc huyền. Nhớ xưa Trương Thiếu bảo; Bia khắc dấu rêu hoen.
(Khương Hữu Dụng dịch, in trong Văn học 10, tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 131) |
Nguyễn Trãi có nhiều bài thơ viết về các danh lam thắng cảnh của đất nước như Yên Tử, Côn Sơn, Bạch Đằng, Thần Phù, Vân Đồn,... Trong những tác phẩm này, nhà thơ không chỉ khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của núi sông nước Việt, tự bộc lộ tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn của mình mà còn gửi gắm nhiều suy tư, triết lí về lịch sử, về thế sự.
Dục Thuý sơn có thể được sáng tác vào thời điểm sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ được sưu tầm và xếp vào Ức Trai thi tập.
Dục Thuý sơn được viết theo thể ngũ ngôn luật thi, gọi tắt là ngũ luật – một thể của thơ Đường luật.
Trả lời câu hỏi
1. Nêu một vài điểm khác biệt đáng chú ý giữa bản dịch nghĩa và bản dịch thơ.
2. Xác định đặc điểm kết cấu của Dục Thuý sơn.
3. Bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của núi Dục Thuý được miêu tả như thế nào?
4. Nêu những chi tiết miêu tả cận cảnh núi Dục Thuý. Những liên tưởng xuất hiện khi say ngắm thiên nhiên cho thấy nét đẹp nào của tâm hồn Nguyễn Trãi?
5. Trong phần kết của những bài thơ viết về đề tài “đăng cao”, “đăng sơn", thi nhân xưa thường thể hiện chí khí hào hùng, khát vọng lớn lao, hoặc nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô đơn của con người trước núi sông kì vĩ. Theo bạn, trong hai câu kết của Dục Thuý sơn, Nguyễn Trãi muốn gửi gắm những nỗi niềm chung ấy hay muốn bày tỏ suy ngẫm riêng của mình?
Kết nối đọc – viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một nét đẹp của tâm hồn Nguyễn Trãi thể hiện trong bài thơ Dục Thuý sơn.
(Trang 26)
Thực hành tiếng Việt
Sử dụng từ Hán Việt (tiếp theo)
1. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo)
a. Tìm và giải nghĩa một số từ Hán Việt có trong đoạn trích chưa được chú thích ở văn bản Bình Ngô đại cáo.
b. Nêu tác dụng biểu đạt của hệ thống từ Hán Việt trong đoạn trích.
c. Đặt câu với các từ: nhân nghĩa, văn hiến, hào kiệt.
2. Đọc lại đoạn 3 của văn bản Bình Ngô đại cáo (từ “Ta đây" đến "Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều."), lập bảng hoặc vẽ sơ đồ liệt kê các điển tích và nêu tác dụng biểu đạt của chúng theo gợi ý sau:
STT | Điển tích | Tác dụng biểu đạt |
1 |
3. Hầu hết các từ có yếu tố “nghĩa” trong nguyên tác Bình Ngô đại cáo đã được dùng lại nguyên vẹn, không dịch ra tiếng Việt (ví dụ: nhân nghĩa). Hãy liệt kê và giải thích ý nghĩa của các từ đó.
4. Tìm một số từ Hán Việt có yếu tố “nhân” được dùng với nghĩa như trong từ nhân nghĩa. Giải nghĩa các từ đó.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn