Bài 17: Phong Trào Dân Chủ 1936 - 1939 | Lịch Sử 12 (Nâng Cao) | Chương 2: Việt Nam Từ Năm 1930 Đến Năm 1945 - Lớp 12 - Giáo Dục Việt Nam

Lịch sử 12 Nâng cao - Bài 17


Vào nửa cuối những năm 30 của thế kỉ XX, trước những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương thay đổi chủ trương, chuyển sang hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp với mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình.

I – TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1936 – 1939

1. Tình hình chính trị

Trong những năm 1936 – 1939, tình hình thế giới có nhiều sự kiện tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam.

Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, bọn phát xít cầm quyền ở một số nước như Đức, Italia, Nhật Bản ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới.

Tháng 7 – 1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva (Liên Xô). Đại hội đã quyết nghị nhiều vấn đề trọng đại, như xác định kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là chống chủ nghĩa phát xít nhằm mục tiêu đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương, do Lê Hồng Phong dẫn đầu, tham dự Đại hội.

Tháng 6 – 1936, Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa.

Ở Đông Dương, Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình, thay Toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật bầu cử vào Viện dân biểu, ân xá một số tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí v.v...

Lúc này ở Việt Nam, nhiều đảng phái chính trị ra hoạt động, trong đó có đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động v.v... Các đảng tận dụng cơ hội, đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy nhiên, chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có chủ trương rõ ràng.

2. Tình hình kinh tế – xã hội

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế "chính quốc".

Về nông nghiệp, chính sách của chính quyền thực dân tạo điều kiện cho tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho 2/3 nông dân không có ruộng hoặc chỉ có ít ruộng. Phần lớn đất nông nghiệp độc canh trồng lúa.

Các đồn điền của tư bản Pháp chủ yếu trồng cao su, cà phê, chè, đay, gai, bông...

Về công nghiệp, ngành khai mỏ được đẩy mạnh. Tổng sản lượng khai mỏ năm 1929 trị giá 18,6 triệu đồng, năm 1939 là 29,5 triệu đồng.

Sản lượng các ngành dệt, sản xuất xi măng, chế cất rượu tăng. Các ngành ít phát triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm.

Về thương nghiệp, chính quyền thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối, thu được lợi nhuận rất cao. Hàng xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản, nông sản. Hàng nhập khẩu là máy móc và hàng tiêu dùng.

Nhìn chung, những năm 1936 – 1939 là thời kì phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam, nhưng chỉ tập trung vào một số ngành đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp.

Đời sống các tầng lớp nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn do chính sách tăng thuế của chính quyền thuộc địa.

Số công nhân thất nghiệp còn nhiều. Ngay cả những người có việc làm, mức lương vẫn không bằng thời kì trước khủng hoảng.

Báo Bạn Dân ngày 24 – 6 – 1937 viết : "Tại Sài Gòn ngày 14 – 6 – 1937, độ 2 000 người thất nghiệp vừa đàn ông, đàn bà, con nít kéo nhau đến toà Đốc lí xin việc và xin gạo".

Nông dân không đủ ruộng cày. Họ còn chịu mức địa tô cao và nhiều thủ đoạn bóc lột khác của địa chủ cường hào, những hủ tục cưới cheo, đình đám...

Tư sản dân tộc có ít vốn nên chỉ lập được những công ti nhỏ, phải chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.

Nhiều người trong giới tiểu tư sản trí thức thất nghiệp. Công chức nhận được mức lương thấp. Các tầng lớp lao động khác phải chịu thuế khoá nặng nề, giá cả sinh hoạt đắt đỏ.

Báo Ngày nay số 131 ngày 8 – 10 - 1938 thuật lại một cuộc phỏng vấn : "Hỏi : Công chức Việt Nam có gì lo nhất ? – Đáp : Nợ ! Nợ ! Nợ ! Nợ tuốt...".

Đời sống của đa số nhân dân khó khăn, cực khổ. Chính vì thế họ hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Nêu những nét chính về tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam trong những năm 1936 – 1939.

II – PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7 – 1936

Tháng 7 – 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị dựa trên Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội nghị xác định : Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến ; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.

Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân Đông Dương hành động, đấu tranh cho dân chủ. Phong trào quần chúng lan rộng trong cả nước.

Sau hội nghị này, Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tiếp đó, Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 bổ sung và phát triển nội dung cơ bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 – 1936. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3 – 1938, Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương đổi thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

2. Những phong trào đấu tranh tiêu biểu

a) Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ

Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản "dân nguyện" để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội vào tháng 8 – 1936. Đảng cũng kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng cùng tham gia.

Khởi đầu ở Nam Kì, đến cuối tháng 9 – 1936 đã có hơn 600 uỷ ban hành động được thành lập. Phong trào mạnh nhất ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hoà...

Uỷ ban hành động phân phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp quần chúng, thảo luận những yêu cầu về dân chủ, dân sinh...

Ở Bắc Kì, trong tháng 9, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kì Đông Dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Hà Nam...

Ở Trung Kì, ngày 12 – 9 – 1936, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kì Đông Dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động được thành lập ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng...

Trước sự lan rộng của phong trào, bọn phản động thuộc địa đàn áp và chia rẽ quần chúng. Ngày 15 – 9 – 1936, chúng ra lệnh giải tán Uỷ ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đông Dương Đại hội.

Mặc dù phái đoàn của Quốc hội Pháp không sang, phong trào Đông Dương Đại hội bị cấm hoạt động, song đông đảo quần chúng đã được thức tỉnh, đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống ; Đảng Cộng sản Đông Dương thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp. Chính quyền thực dân đã phải giải quyết một phần yêu sách của nhân dân như nới rộng quyền xuất bản báo chí, tự do đi lại, thả một số tù chính trị...

Song song với cuộc vận động Đông Dương Đại hội và sau khi phong trào bị cấm, các tầng lớp nhân dân trong cả nước tiến hành nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền lợi. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh, trong đó có 236 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công ngày 23 – 11 của công nhân Hòn Gai, Cẩm Phả, Mông Dương... đòi tăng lương 25%(1).

Năm 1937 có 400 cuộc bãi công của công nhân. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân xe lửa Nam Đông Dương ngày 9 – 7 – 1937 và mỏ than Vàng Danh ngày 28 – 9 – 1937. 15 cuộc đấu tranh của nông dân đòi giảm tô, giảm tức... Tiểu thương ở Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố và thị xã khác bãi thị, đòi giảm thuế chợ, thuế hàng.

(1) Ngày này trở thành ngày hội truyền thống của công nhân mỏ.

Trong tháng 1 và tháng 2 – 1937 còn có những cuộc mít tinh và biểu tình lớn của nhân dân cả nước nhằm biểu dương lực lượng khi G. Gôđa – phái viên của Chính phủ Pháp – sang điều tra tình hình Đông Dương và Brêviê sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương.

Trong tháng 3 và tháng 7, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp để bàn về công tác quần chúng. Đảng quyết định lập Công hội thay Công hội đỏ, Đoàn Thanh niên phản đế thay Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Cứu tế bình dân thay Hội Cứu tế đỏ v.v... Ở nông thôn, lập Hội cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ v.v... Những hình thức tổ chức linh hoạt, hoạt động công khai, nửa công khai, đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia.

Năm 1938 có 131 cuộc bãi công của công nhân. Tuy số lượng cuộc đấu tranh giảm so với năm trước, nhưng chất lượng cao hơn biểu hiện ở trình độ giác ngộ của quần chúng, khẩu hiệu đấu tranh, sự phối hợp đấu tranh giữa các địa phương.

Cuối năm 1938 ở Nam Kì xảy ra nạn đói. Nông dân nhiều nơi biểu tình. Điển hình là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau (10 – 1938). Phong trào đấu tranh của tiểu thương, học sinh dâng cao.

Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1 – 5 – 1938. Lần đầu tiên, trong ngày Quốc tế Lao động, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

Năm 1939, phong trào tập trung ở những trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn...

hinh-anh-bai-17-phong-trao-dan-chu-1936-1939-3064-0

Hình 42. Mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động (1 – 5 – 1938) tại khu Đấu Xảo (nay là khu vực Cung Văn hoá Hữu nghị Hà Nội)

Nguyễn Ái Quốc nhận xét : "So với trước thì các cuộc bãi công năm 1939 có tổ chức và có kỉ luật hơn. Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách cụ thể hơn : đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bảo hiểm xã hội, công nhận các đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bản.

Hầu hết các cuộc bãi công đều được sự ủng hộ tinh thần và vật chất của công nhân các ngành khác, của nông dân và tiểu thương, đôi khi ngay cả tù chính trị cũng đóng góp vào các cuộc lạc quyên ủng hộ."(1)

b) Đấu tranh nghị trường

Đấu tranh ở nghị trường là một lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong các cuộc tuyển cử vào các cơ quan lập pháp, Mặt trận Dân chủ, trong đó Đảng Cộng sản là thành viên tích cực, đã đưa người ra ứng cử với chương trình hành động, như mở rộng quyền tự do, dân chủ, bỏ thuế môn bài, thuế chợ, thuế đò, bỏ thuốc phiện, bỏ độc quyền rượu, mở mang y tế, cứu tế thất nghiệp v.v...

Trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì tháng 8 – 1937, Đảng vận động những người tiến bộ trong hàng ngũ trí thức ra ứng cử. Đảng sử dụng báo chí để tuyên truyền và vận động cử tri bỏ phiếu cho những ứng cử viên này. Kết quả là hầu hết các ứng cử viên do Đảng vận động ra ứng cử đã trúng cử.

Trong kì họp của Viện Dân biểu tháng 9 – 1938, các nghị viên đã bác bỏ dự án thuế thân và thuế điền thổ của chính phủ thuộc địa.

Năm 1938, trong cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kì, 15 ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ đã trúng cử. Mặt trận Dân chủ còn giành thắng lợi trong Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương – cơ quan "dân cử" cao nhất ở Đông Dương.

Năm 1939, diễn ra cuộc tuyển cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kì. Trong cuộc tuyển cử này, Mặt trận Dân chủ bị thất bại do những thủ đoạn thâm độc của bọn phản động thuộc địa, do nội bộ Mặt trận không thống nhất ý kiến.

Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương tham gia đấu tranh công khai trên nghị trường nhằm mục đích mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động.

(1) Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1 (1919 – 1945), NXB Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 550.

c) Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí

Đảng Cộng sản Đông Dương triệt để sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh cách mạng ; tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, tập hợp, hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng.

Đây cũng là lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng. Những người cộng sản tìm mọi cách xuất bản báo. Từ năm 1937, báo chí công khai của Đảng phát triển nhanh chóng.

Bắc Kì là nơi báo Đảng phát triển mạnh nhất. Các tờ báo tiếng Việt là Hồn trẻ, Tân xã hội, Thời báo, Thời thế, Tin tức, Đời nay, Phong hoá...

Các tờ báo tiếng Pháp là Le Travail (Lao động), Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta)...

Ở Trung Kì, các tờ báo tiêu biểu là Nhành lúa, Dân, Sông Hương tục bản, Kinh tế tân văn.

Ở Nam Kì, các báo xuất bản bằng tiếng Việt là Phổ thông, Dân chúng, Lao động, Mới..., báo tiếng Pháp có các tờ La Luffe (Tranh đấu), L’avant garde (Tiền phong), Le Peuple (Nhân dân)...

Các báo của Đảng tuyên truyền, giới thiệu về chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Đông Dương, Liên Xô, Quốc tế Cộng sản, Mặt trận Nhân dân Pháp v.v...

Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong những phong trào lớn và hoạt động của cuộc vận động dân chủ, dân sinh thời kì 1936 – 1939 như Đông Dương Đại hội, "đón" Gôđa và Brêviê, những cuộc bầu cử và đấu tranh nghị trường v.v...

Trong thời gian này, nhiều sách chính trị – lí luận được xuất bản công khai hoặc được đưa từ Pháp về. Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ; Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố ; Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ; thơ cách mạng của Tố Hữu ; kịch có tác phẩm Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Đời cô Lựu của Trần Hữu Trang.

Cuối năm 1937, Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ nhằm giúp quần chúng lao động đọc được sách báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị.

Cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực báo chí những năm 1936 – 1939 đã thu được kết quả to lớn, trước hết về văn hoá – tư tưởng. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng của Đảng.

3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936 – 1939

Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 là một phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Phong trào dân chủ 1936 – 1939, bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ ; quần chúng được giác ngộ về chính trị, đã tham gia mặt trận dân tộc thống nhất, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng ; đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và ngày càng trưởng thành.

Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp. Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc... Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc tập dượt, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

– Nêu nội dung cơ bản của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7 – 1936.

– Nhiệm vụ, mục tiêu, hình thức đấu tranh trong thời kì 1936 – 1939 là gì ?

– Trình bày một trong các phong trào đấu tranh thời kì 1936 – 1939.

– Trình bày ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936 – 1939.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP

1. Em có nhận xét gì về quy mô, lực lượng tham gia và hình thức đấu tranh của phong trào dân chủ 1936 – 1939 ?

2. Hãy so sánh chủ trương, sách lược cách mạng của Đảng, hình thức đấu tranh giữa thời kì 1936 – 1939 với thời kì 1930 – 1931.

 

Tin tức mới


Đánh giá

Bài 17: Phong Trào Dân Chủ 1936 - 1939 | Lịch Sử 12 (Nâng Cao) | Chương 2: Việt Nam Từ Năm 1930 Đến Năm 1945 - Lớp 12 - Giáo Dục Việt Nam

Tổng số sao của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Xếp hạng: 5 / 5 sao

Bình Luận

Để Lại Bình Luận Của Bạn

Lịch Sử 12 (Nâng Cao)

  1. Chương 1: Sự Hình Thành Trật Tự Thế Giới Mới Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai (1945 - 1949)
  2. Chương 2: Liên Xô Và Các Nước Đông Âu (1945 - 1991). Liên Bang Nga (1991 - 2000)
  3. Chương 3: Các Nước Á, Phi và Mĩ Latinh (1945 - 2000)
  4. Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 - 2000)
  5. Chương 5: Quan Hệ Quốc Tế (1945 - 2000)
  6. Chương 6: Cách Mạng Khoa Học - Công Nghệ Và Xu Thế Toàn Cầu Hóa
  7. Chương 1: Việt Nam Từ Năm 1919 Đến Năm 1930
  8. Chương 2: Việt Nam Từ Năm 1930 Đến Năm 1945
  9. Chương 3: Việt Nam Từ Năm 1945 Đến Năm 1954
  10. Chương 4: Việt Nam Từ Năm 1954 Đến Năm 1975
  11. Chương 5: Việt Nam Từ Năm 1975 Đến Năm 2000

Tin tức mới

Bộ Sách Lớp 12

Giáo Dục Việt Nam

Bộ Sách Giáo Khoa của Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam

Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống

Sách giáo khoa của nhà xuất bản Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống

Sách Bài Giải

Bài giải cho các sách giáo khoa, sách bài tập

Sách Giáo Dục Việt Nam

Lớp 6

Sách giáo khoa dành cho lớp 6

Lớp 5

Sách giáo khoa dành cho lớp 5

Lớp 4

Sách giáo khoa dành cho lớp 4

Lớp 3

Sách giáo khoa dành cho lớp 3

Lớp 7

Sách giáo khoa dành cho lớp 7

Lớp 8

Sách giáo khoa dành cho lớp 8

Lớp 9

Sách giáo khoa dành cho lớp 9

Lớp 10

Sách giáo khoa dành cho lớp 10

Lớp 11

Sách giáo khoa dành cho lớp 11

Lớp 12

Sách giáo khoa dành cho lớp 12

Liên Kết Chia Sẻ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.