Nội Dung Chính
(Trang 57)
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xư vọng nói về.
(Nguyễn Đình Thi)
GIỚI THIỆU BÀI HỌC
• Trong suốt chiều dài lịch sử, biết bao thế hệ người Việt Nam đã hi sinh xương máu để xây đắp và gìn giữ đất nước mình. Gia tài vô cùng quý báu trong truyền thống của người Việt Nam là lòng yêu nước, là sự gắn bó máu thịt với quê hương, xứ sở. Lòng yêu nước thể hiện ở hành động đấu tranh dựng nước và giữ nước, ở các giá trị tinh thần được tạo nên, trong đó có những áng văn sống mãi với thời gian.
• Với bài học này, em sẽ đọc một số bài văn nghị luận đặc sắc, được viết nên bởi những con người kiệt xuất – những nhân vật lịch sử có trọng trách đối với đất nước, kết tinh hào khí của cha ông trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Các văn bản trong bài ra đời vào những thời đại khác nhau, nhưng vẫn đồng điệu ở tình cảm yêu nước, và đều là mẫu mực của văn bản nghị luận. Kết nối với chủ đề bài học là một bài thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc, ra đời cách đây hơn một nghìn năm, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ của cha ông ta.
YÊU CẦU CẦN ĐẠT
• Nhận biết được nội dung bao quát; luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu trong văn bản nghị luận.
• Phân tích được mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng; vai trò của luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong việc thể hiện luận đề; phân biệt được lí lẽ, bằng chứng khách quan (có thể kiểm chứng được) với ý kiến, đánh giá chủ quan của người viết.
• Liên hệ được nội dung nêu trong văn bản với những vấn đề của xã hội đương đại.
• Nhận biết được đặc điểm và chức năng của các kiểu đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song song, phối hợp; biết vận dụng trong tiếp nhận và tạo lập văn bản.
• Viết được văn bản nghị luận về một vấn đề của đời sống.
• Biết thảo luận ý kiến về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi; nắm bắt được nội dung chính mà nhóm đã thảo luận và trình bày lại được nội dung đó.
• Có tinh thần yêu nước, có trách nhiệm đối với những vấn đề của cộng đồng.
(Trang 58)
Đọc
-------------------------------
TRI THỨC NGỮ VĂN
Luận đề, luận điểm trong văn bản nghị luận
• Luận đề là vấn đề được luận bàn trong văn bản nghị luận. Vấn đề đó có tính chất bao trùm, xuyên suốt văn bản. Mỗi văn bản nghị luận thường chỉ có một luận đề. Luận đề có thể được nêu rõ ở nhan đề, ở một số câu hoặc có thể được khái quát từ toàn bộ nội dung của văn bản. Luận đề trong văn bản nghị luận xã hội là hiện tượng hay vấn đề của đời sống được nếu để bàn luận.
• Luận điểm là các ý triển khai những khía cạnh khác nhau của một luận đề trong văn bản nghị luận. Qua luận điểm được trình bày, có thể nhận thấy ý kiến cụ thể của người viết về vấn đề được bàn luận.
Mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản nghị luận
Luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng là những yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong văn bản nghị luận. Mối liên hệ này có tính tầng bậc. Như đã nêu trên, văn bản nghị luận trước hết phải có một luận đề. Từ luận đề, người viết triển khai thành các luận điểm. Mỗi luận điểm muốn có sức thuyết phục, cần được làm rõ bằng các lí lẽ và mỗi lí lẽ cần được chứng minh bằng các bằng chứng cụ thể. Có thể hình dung mối liên hệ này qua sơ đồ sau:
LUẬN ĐỀ | |||||
Luận điểm 1 | Luận điểm 2 | Luận điểm 3 | |||
Lí lẽ ................. ................. ................. | Bằng chứng ................. ................. ................. | Lí lẽ ................. ................. ................. | Bằng chứng ................. ................. ................. | Lí lẽ ................. ................. ................. | Bằng chứng ................. ................. ................. |
Đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song song, phối hợp
Diễn dịch, quy nạp, song song, phối hợp là các kiểu đoạn văn được phân biệt dựa vào cách thức tổ chức, triển khai nội dung. Việc phân biệt các kiểu đoạn văn này liên quan đến câu chủ đề, tức là câu thể hiện nội dung bao quát của đoạn văn.
• Đoạn văn diễn dịch: Đoạn văn có câu chủ đề được đặt ở đầu đoạn, những câu tiếp theo triển khai các nội dung cụ thể để làm rõ chủ đề của đoạn văn.
• Đoạn văn quy nạp: Đoạn văn triển khai nội dung cụ thể trước, từ đó mới khái quát nội dung chung, được thể hiện bằng câu chủ đề ở cuối đoạn văn.
(Trang 59)
• Đoạn văn song song: Đoạn văn không có câu chủ đề, các câu trong đoạn có nội dung khác nhau, nhưng cùng hướng tới một chủ đề.
• Đoạn văn phối hợp: Đoạn văn kết hợp diễn dịch với quy nạp, có câu chủ đề ở đầu đoạn và cuối đoạn.
VĂN BẢN ĐỌC VĂN BẢN 1. Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn VĂN BẢN 2. Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Hồ Chí Minh VĂN BẢN 3. Nam quốc sơn hà |
VĂN BẢN 1
TRƯỚC KHI ĐỌC
1. Hãy kể tên một số vị tướng nổi tiếng trong lịch sử nước ta.
2. Theo em, vì sao quân Mông – Nguyên ba lần đem quân xâm lược nước ta đều phải chịu thất bại?
ĐỌC VĂN BẢN
Hịch(1) tướng sĩ(2)
----------------------
TRẦN QUỐC TUẤN
----------------------
Ta thường nghe: Kỉ Tín(3) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế, Do Vụ(4) chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương, Dự Nhượng(5) nuốt than báo thù cho chủ,
------------------
(1) Hịch: thể văn nghị luận thường được vua, quan, tướng lĩnh thời xưa dùng để thuyết phục hoặc kêu gọi người dưới quyền đấu tranh chống kẻ thù trong bối cảnh có chiến tranh. Hịch cũng có thể được người dân sáng tác để kêu gọi mọi người chống ngoại xâm hoặc giai cấp thống trị. Bài hịch kêu gọi đánh giặc thường gồm ba nội dung chính: nêu cơ sở, căn cứ của quan điểm, lập trường; làm rõ tính chính nghĩa của phe mình, tinh phi nghĩa của phe địch, miêu tả, phân tích, đánh giá tình hình thực tế; đưa ra lời khuyến dụ.
(2) Hịch tướng sĩ nguyên văn bài hịch trong Đại Việt sử kí toàn thư không có nhan đề, trong Hoàng Việt văn tuyển có tên là Trần Hưng Đạo Đại Vương dụ chư tì tướng hịch văn (Bài hịch Trần Hưng Đạo Đại Vương khuyên bảo các tì tướng). Đối tượng người nghe trực tiếp của bài hịch này là tì tướng (các viên tướng giúp việc cho chủ tướng). Tuy nhiên, sức lay động lòng người trong bối cảnh đất nước lâm nguy đã khiến bài hịch được lan toả rộng khắp và lưu truyền đến ngày nay với tên gọi Hịch tướng sĩ.
(3) Kỉ Tín tưởng của Lưu Bang (Hán Cao Tổ – hoàng đế sáng lập nhà Hán). Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở đất Huỳnh Dương, thế khó thoát, Kỉ Tín (có ngoại hình giống Lưu Bang) bèn giả làm Lưu Bang ra hàng, bị Hạng Vũ giết. Nhờ đó Lưu Bang thoát nạn.
(4) Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương (thời Xuân Thu). Chiêu Vương lúc lánh nạn ở đầm Vân Mộng, đang ngủ thì bị kẻ cướp đâm. Do Vu đã chia lưng che chở cho Chiêu Vương, bị đâm trúng bả vai.
(5) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá (thời Chiến Quốc). Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết chết, Dự Nhượng nuốt than nóng cho khác giọng, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử báo thù cho chủ.
(Trang 60)
Theo dõi Điểm chung của các cặp nhân vật lịch sử được nêu tên. |
Thân Khoái(1) chặt tay chết theo nạn của vua(2); Kinh Đức(3), một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung, Cảo Khanh(4), một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muốn đòi bất hủ được!
Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.
Theo dõi Mối quan hệ vua – tôi, chủ tướng - tì tướng được Trần Quốc Tuấn viện dẫn làm cơ sở cho những lập luận kế tiếp. |
Vương Công Kiên(5) là người thế nào? Tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào, mà giữ thành Điếu Ngư(6) nhỏ như cái đấu, chống với quân Mông Kha(7) động đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống, đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang(8) là người thế nào? Tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng(9) xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu(10) trong vài tuần, khiến cho quân trưởng(11) đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt!
Theo dõi Những lí lẽ và bằng chứng được Trần Quốc Tuấn sử dụng nhằm lay động cảm xúc của các tì tướng. |
Huống chi ta cùng các người sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều, mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt
-------------------------
(1) Thân Khoái: viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công (thời Xuân Thu). Khi Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái chặt tay tỏ lòng trung thành rồi chết theo chủ.
(2) Chết theo nạn của vua: nguyên tác là “phó quốc nạn" (đi theo (chết theo) vận nạn của vua); quốc vốn chỉ quốc gia, nhưng cũng được dùng để chỉ vua (quốc tính: họ vua; quốc thích: bên ngoại của vua,..). Ở trường hợp này, quốc nạn chỉ việc vua Trang Công bị giết. Trần Quốc Tuấn sử dụng các nhân vật có quan hệ chủ – tớ hoặc vua – tôi làm bằng chứng, nên cách diễn đạt "cứu nạn cho nước" của bản dịch không thực sự phù hợp, nay xin chỉnh lại.
(3) Kinh Đức: tức Uất Trì Cung thời Đường. Khi Đường Thái Tông (lúc bấy giờ còn là Tần Vương) bị một viên tướng của Vương Thế Sung dùng gươm đâm, Kinh Đức đã lấy thân minh che chở cho Đường Thái Tông thoát nạn.
(4) Cảo Khanh: tức Nhan Cảo Khanh. Khi An Lộc Sơn khởi loạn đánh Đường Minh Hoàng, Cảo Khanh cầm quân chống lại. Bị quân của An Lộc Sơn bắt, Cảo Khanh chửi mắng An Lộc Sơn, không chịu hàng, bị cắt lưỡi mà vẫn không sợ.
(5) Vương Công Kiên: tướng nhà Tống, khi giữ Hợp Châu đã huy động quân dân chiến đấu ở Điều Ngư, chống cự với đạo quân Mông Cổ suốt bốn tháng trời, khiến quân Mông Cổ phải rút lui.
(6) Điếu Ngư: tên một toà thành trên một trái núi cùng tên ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, có địa thế hiểm trở. Thời Tống, Vương Công Kiên làm Tri châu, cùng ti tướng Nguyễn Văn Lập đóng giữ thành này, khiến quân Mông Kha đánh mấy tháng không hạ nổi.
(7) Mông Kha: anh của Hốt Tất Liệt (vua đầu tiên của nhà Nguyên), trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc, bị tử trận ở thành Điếu Ngư khi vây hãm quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy. Một thuyết khác cho rằng Mông Kha ốm chết sau trận chiến này.
(8) Cốt Đãi Ngột Lang: tướng của Mông Cổ, từng đem quân đi đánh các nước phương Nam, trong đó có nước ta.
(9) Lam chướng: khí (được cho là độc hại) toả ra từ đất đá, khiến người dễ sinh bệnh khi nhiễm phải.
(10) Nam Chiếu: một nước nhỏ ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, Trung Quốc.
(11) Quân trưởng: người đứng đầu một bộ tộc hoặc một đội quân (thường dùng ở các dân tộc thiểu số Trung Quốc thời xưa).
(Trang 61)
tể phụ(1), thác mệnh Hốt Tất Liệt(2) mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương(3) mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau?
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa(4), ta cũng cam lòng.
Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì.
Theo dõi Các bằng chứng và lí lẽ Trần Quốc Tuấn sử dụng để khẳng định các tì tướng đang suy nghĩ và hành động không đúng. |
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường(5) để đãi yến(6) ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con rịn, việc quân cơ trăm sự ích chi, tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp(7) của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta
---------------------------
(1) Tể phụ: chức quan hàng đầu triều đình giúp vua trị nước, thông thường chỉ Tể tướng.
(2) Hốt Tất Liệt: vua Thế Tổ nhà Nguyên.
(3) Vân Nam Vương: Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, được phong vương ở đất Vân Nam, Trung Quốc, trực tiếp cầm đầu quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai.
(4) Nghìn xác này gói trong da ngựa: ý nói làm trai phải đánh đông dẹp bắc, xả thân nơi chiến trường mà chẳng sờn lòng; lấy ý từ lời của Mã Viện thời Hán: "Đấng nam nhi nên chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây.
(5) Nhạc thái thường: nhạc của triều đình, vốn dùng trong những dịp tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ, trong yến tiệc tiếp sứ giặc, triều đình nhà Trần phải dùng đến nhạc thái thường để giúp vui, Trần Quốc Tuấn coi đó là một điều nhục nhã.
(6) Yến: bữa tiệc.
(7) Thái ấp: phần đất vua phong cho giới quý tộc.
(Trang 62)
bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh(1) các người cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?
Theo dõi Những lí lẽ Trần Quốc Tuấn dùng để thuyết phục các tì tướng nghe theo lời khuyên của chủ tướng. |
Nay ta bảo thật các ngươi: Nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi”(2) là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”(3) làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ(4); có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết(5), làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai(6). Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ, chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mả tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi, trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền, chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là Binh thư yếu lược(7). Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ(8); nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
(Bùi Văn Nguyên dịch, in trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Văn học Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVII, NXB Văn hoa, Hà Nội, 1962, tr. 91 – 93)
-----------------------
(1) Gia thanh: tiếng tăm, danh dự của dòng tộc, gia đình.
(2) Đặt mồi lửa vào dưới đống củi: ý nói phải cảnh giác như nằm trên đống củi mà có mồi lửa ở dưới; lấy ý từ một câu trong Hán thư. "Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên".
(3) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: theo một câu trong Sở từ, đại ý: Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng e sợ, dù gặp rau nguội đi nữa cũng lấy miệng thổi.
(4) Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung rất giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
(5) Cửa khuyết: cửa lớn ở kinh thành.
(6) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An, Trung Quốc. Ở đây dùng để chỉ nơi tiếp đón sứ thần nước ngoài của ta.
(7) Binh thư yếu lược: sách tóm tắt những điều cốt yếu về binh pháp, do Trần Quốc Tuấn soạn, chuẩn bị cho việc đánh giặc, giữ nước.
(8) Đạo thần chủ: đạo giữa bề tôi (thần) với chủ tướng, lãnh chúa (chủ).
(Trang 63)
SAU KHI ĐỌC
- Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300) tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (năm 1285) và thứ ba (năm 1287 – 1288), ông đều được vua Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều chiến thắng oanh liệt. Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. Nhân dân tôn ông là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên cả nước.
- Hịch tướng sĩ do Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai.
TRẢ LỜI CÂU HỎI
1. Bài hịch được Trần Quốc Tuấn viết ra nhằm mục đích gì?
2. Xác định bố cục của bài hịch và nêu rõ vai trò của từng phần trong việc thực hiện mục đích của bài hịch.
3. Hãy chỉ ra những điểm chung của các cặp nhân vật lịch sử được nêu ở phần đầu bài hịch. Tác giả đã nêu hành động của tám cặp nhân vật lịch sử này để minh chứng điều gì?
4. Để khơi gợi những cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các tì tướng và thuyết phục họ, Trần Quốc Tuấn đã nhắc đến nhiều hiện tượng trong thực tế. Đó là những hiện tượng nào?
5. Tác giả đã dùng những bằng chứng và lí lẽ nào để chứng minh các tì tướng đã suy nghĩ, hành động không đúng?
6. Tác giả đã chọn cách diễn đạt như thế nào để lời hịch có sức tác động lớn đến nhận thức và tình cảm của các tì tướng? Hãy phân tích một ví dụ mà em cho là tiêu biểu cho cách diễn đạt đó.
7. Với tư cách là chủ tướng, Trần Quốc Tuấn đã dùng những lí lẽ nào để kêu gọi các tì tướng phải rèn tập võ nghệ, học tập cuốn Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho việc đánh giặc, giữ nước?
8. Từ bài hịch này, em rút ra được bài học gì cho bản thân khi viết một bài văn nghị luận?
VIẾT KẾT NỐI VỚI ĐỌC
Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) về một truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam.
(Trang 64)
Thực hành tiếng Việt
ĐOẠN VĂN DIỄN DỊCH VÀ ĐOẠN VĂN QUY NẠP 1. Tìm câu chủ đề trong các đoạn văn sau, từ đó, xác định kiểu đoạn văn (diễn dịch, quy nạp). Phân tích tác dụng của từng cách thức tổ chức đoạn văn. a. Ta thường nghe: Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay chết theo nạn của vua; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được! (Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ) b. Đồng phục không chỉ đẹp mà còn góp phần tạo nên bản sắc của mỗi trường. Cậu này là học sinh Trường THCS Lê Quý Đôn, bạn ấy thuộc Trường THCS Lương Thế Vinh, còn cô bé kia học ở Trường THCS Đặng Thai Mai,... tất cả đều được nhận ra nhờ bộ đồng phục mà họ mặc. Trong cuộc thi “Nhóm bạn lí tưởng” ở huyện, “màu cờ sắc áo” không chỉ thể hiện ở tài trí của năm bạn trong đội hình thi đấu trên sân khấu, mà còn ở các nhóm cổ động viên tưng bừng, nổi bật trong bộ đồng phục của trường mình trên khán đài. Dẫn theo Ngữ văn 6, tập hai 2. Hãy sắp xếp các câu sau đây thành đoạn văn diễn dịch, sau đó sắp xếp lại thành đoạn văn quy nạp và cho biết dựa vào cơ sở nào, em sắp xếp như vậy. | Nhận biết đặc điểm và chức năng của kiểu tổ chức đoạn văn diễn dịch và đoạn văn quy nạp • Đặc điểm - Đoạn văn diễn dịch Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kì lịch sử. (Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc) Ở đoạn văn trên, câu chủ đề (in đậm) được đặt ở đầu đoạn, khẳng định hai nét đặc sắc của tiếng Việt là đẹp và hay. Các câu tiếp theo nói rõ cái đẹp và cái hay thể hiện cụ thể như thế nào. - Đoạn văn quy nạp Đề cao sự khác biệt không phải là cổ động cho lối sống cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, chối bỏ mọi trách nhiệm. Đề cao sự khác biệt không có nghĩa chấp nhận những sự kì dị, quái đản cốt làm cho cá nhân nổi bật giữa đám đông, xa lạ với văn hoá truyền thống của dân tộc. Đề cao sự khác biệt cũng không đồng nghĩa với việc tán thành lối sống tự do vô mục đích. Xét cho cùng, chỉ sự khác biệt nào toát lên được giá trị của cá nhân và có ích cho cộng đồng thì mới thực sự có ý nghĩa, đáng được đề cao. (Nhiều tác giả, Để làm tốt bài thi môn Ngữ văn kì thi trung học phổ thông quốc gia - phần nghị luận xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) |
(Trang 65)
(1) Một cô Tấm (trong truyện “Tấm Cám") bao lần bị hại, cuối cùng vẫn được làm hoàng hậu, nhưng mụ dì ghẻ và Cám – những kẻ lắm mưu mô tàn ác thì bị trừng phạt đích đáng. (2) Một Thạch Sanh (truyện“Thạch Sanh") chất phác, thật bụng tin người, dẫu trải qua bao khổ nạn, oan khuất rồi đến lúc cũng cưới được công chúa và lên ngôi, còn Lý Thông lừa lọc, xảo trá thì trời đất không dung tha. (3) Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo là ước mơ công bằng được nhân dân gửi gắm vào truyện cổ tích. | Ba câu đầu nêu những biểu hiện của sự khác biệt tầm thường, vô nghĩa, từ đó, câu chủ đề (in đậm) ở cuối đoạn văn mới có cơ sở khẳng định sự khác biệt có ý nghĩa, đáng được đề cao. • Chức năng Diễn dịch, quy nạp là hai kiểu tổ chức đoạn văn khác nhau, nhưng đều đáp ứng yêu cầu cơ bản của một đoạn văn: thể hiện rõ chủ đề. Do có câu chủ đề, việc tiếp nhận nội dung đoạn văn trở nên thuận lợi hơn, dù câu chủ đề được đặt ở đầu đoạn (diễn dịch) hay ở cuối đoạn (quy nạp). Hai kiểu đoạn văn này đặc biệt phù hợp với văn bản nghị luận. |
(4) Một người em (truyện "Cây khế") thật thà, hiền lành, bị anh đối xử bất công, ai ngờ cuộc sống về sau lại giàu sang, hạnh phúc, trong khi người anh tham lam thì bỏ mạng giữa biển khơi.
3. Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. (Ilya Ehrenburg (I-li-a Ê-ren-bua)). Hãy xem đây là câu chủ đề, từ đó, viết hai đoạn văn, một đoạn đặt câu chủ đề ở đầu đoạn (diễn dịch) và một đoạn đặt câu chủ đề ở cuối đoạn (quy nạp).
VĂN BẢN 2
TRƯỚC KHI ĐỌC
1. Qua những bài học từ môn Lịch sử hoặc qua những truyện lịch sử đã học, đã đọc, hành động yêu nước của nhân vật nào để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao?
2. Trong cuộc sống hôm nay, con người có thể thể hiện tinh thần yêu nước bằng những cách nào?
ĐỌC VĂN BẢN
Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
-----------------------
HỒ CHÍ MINH
-----------------------
Theo dõi Cách mở đầu và câu văn thể hiện nội dung bao quát của văn bản. |
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
(Trang 66)
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn