Nội Dung Chính
(Trang 20)
Học xong chuyên đề này, em sẽ:
- Giải thích được nguyên nhân bùng nổ, hậu quả và tác động của hai cuộc chiến tranh thế kỉ XX.
- Phân tích được khát vọng hoà bình và cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân thế giới giữa hai cuộc chiến tranh.
- Nêu được ý nghĩa của phong trào kháng chiến chống phát xít vì hoà bình của nhân dân thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Phân tích được ý nghĩa của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
- Nêu được nét chính về nguyên nhân, đặc điểm, hậu quả của Chiến tranh lạnh. Phân tích được nguyên nhân kết thúc và tác động của Chiến tranh lạnh.
- Giải thích được vì sao sau Chiến tranh lạnh, các cuộc chiến tranh, xung đột vẫn tiếp diễn.
- Sưu tầm tư liệu để tìm hiểu về cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân thế giới trong Chiến tranh lạnh. Nêu được nét chính về phong trào quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thông qua ví dụ cụ thể.
- Giải thích được vì sao cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân thế giới vẫn tiếp diễn sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc.
- Có ý thức trân trọng và góp phần tham gia vào cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân thế giới.
Hình bên là ảnh chụp bản sao tác phẩm điêu khắc nổi tiếng Không bạo lực của khẩu súng không có nòng nút thắt như do nghệ sĩ Thuỵ Điển C. Ph. Ri-tê-u-ớt sáng tác, tặng cho Liên Hợp Quốc và được đặt bên ngoài trụ sở của tổ chức này ở Niu Oóc (Mĩ). Cựu Tổng Thư kí Liên Hợp Quốc Cô-phi An-nan khẳng định: “Tác phẩm điêu khắc Không bạo lực không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần; nó đã làm phong phú thêm ý thức của nhân loại với một hàm ý biểu tượng mạnh mẽ trong những đường nét đơn giản, lời cầu nguyện vĩ đại nhất của con người: hoà bình cho mọi người”. Vì sao hoà bình trở thành ước muốn vĩ đại nhất của mọi người? Hãy chia sẻ những điều em biết về chiến tranh, về hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới trong thế kỉ XX. | Hình 1. Tác phẩm điêu khắc Không bạo lực |
(Trang 21)
I. CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)
a) Nguyên nhân
Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt nguồn từ sự phát triển không đều về kinh tế – chính trị của chủ nghĩa tư bản vào những năm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Sự phát triển không đồng đều đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa các nước đế quốc. Đức cùng Áo – Hung và I-ta-li-a thành lập liên minh tay ba, được gọi là Phe Liên minh (sau này I-ta-li-a đã rời khỏi liên minh này). Đối phó với âm mưu của Đức, các nước Anh, Pháp và Nga đã kí với nhau những bản hiệp ước tay đôi, hình thành Phe Hiệp ước.
Tham vọng bành trướng thuộc địa của Anh và chính sách chạy đua vũ trang của Đức đe doạ trực tiếp hệ thống thuộc địa của Anh, Pháp; đồng thời trở thành đầu mối của những căng thẳng trong quan hệ quốc tế ở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Sự kiện Thái tử đế quốc Áo – Hung là Ph. Phéc-đi-năng và phu nhân bị một sinh viên người Xéc-bi sát hại tại Bô-xni-a ngày 28 – 6 – 1914 là “giọt nước tràn li” và được coi là cái cớ để Đức kích động Áo – Hung gây Chiến tranh. Sau đó, Đức tuyên chiến với Nga (1 – 8) và Pháp (3 – 8). Anh tuyên chiến với Đức (4 – 8). Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
TƯ LIỆU 1. “Về cả hai phía, cuộc chiến tranh đó đều là chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, điều đó hiện nay không còn bàn cãi gì nữa... Chiến tranh vô luận do giai cấp tư sản Đức hoặc do giai cấp tư sản Anh – Pháp, cũng đều nhằm cướp bóc các nước khác, bóp nghẹt các dân tộc nhược tiểu, thống trị thế giới về mặt tài chính, chia và chia lại thuộc địa.” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 31, NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 18). |
b) Hậu quả và tác động
Sau hơn 4 năm (từ tháng 7 – 1914 đến tháng 11 – 1918), Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với thắng lợi của phe Hiệp ước, thất bại của phe Liên minh và để lại những hậu quả nặng nề cho toàn thế giới.
Hình 2. 900 nghìn bông hồng phủ kín con hào bao quanh tháp Luân Đôn (Anh). | EM CÓ BIẾT? Tháng 11 – 2014, để kỉ niệm 100 năm ngày Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, 900 nghìn bông hoa hồng đá phủ kín con hào bao quanh tháp Luân Đôn (Anh) để tưởng nhớ những người đã ngã xuống trong chiến tranh. |
(Trang 22)
Bảng 1. Thống kê số liệu về một số hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất
Danh mục thống kê | Số liệu |
1. Số nước tham chiến | 38 |
2. Số quân tham chiến (triệu người) | 74 |
3. Số người chết vì chiến tranh (triệu người) | 10 |
4. Số người bị thương và tàn tật (triệu người) | 20 |
(Theo Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục, 2010, tr. 217).
Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng đồng thời tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới.
Chiến tranh làm thay đổi sâu sắc bản đồ chính trị châu Âu với sự sụp đổ của 4 đế quốc lớn. Đế quốc Nga đã sụp đổ trước tháng 10 của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Các đế quốc: Đức, Áo – Hung, Ôt-tô-man bại trận và sụp đổ khi chiến tranh kết thúc. Trong khi châu Âu suy sụp vì chiến tranh thì 2 nước tư bản ngoài châu Âu (Mĩ và Nhật Bản) có điều kiện vươn lên nhanh chóng.
Chiến tranh kết thúc mở ra một thời kì mới trong lịch sử thế giới. Một trật tự thế giới mới được xác lập phù hợp với tương quan lực lượng mới giữa các cường quốc, được gọi là hệ thống Véc-xai – Oa-sinh-tơn. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới mở ra thời kì phát triển mới trong phong trào cách mạng thế giới.
? 1. Khai thác Bảng 1, phân tích hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất. 2. Đánh giá tác động của Chiến tranh thế giới thứ nhất đối với tình hình thế giới. |
2. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)
a) Nguyên nhân
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ngày 1 – 9 – 1939, bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau.
TƯ LIỆU 2. “Nguyên nhân sâu xa hay nguồn gốc của Chiến tranh thế giới thứ hai là tác động của quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sự phát triển không đồng đều đã làm cho so sánh lực lượng giữa các nước thay đổi căn bản, khiến cho sự phân chia thế giới theo hệ thống Véc-xai – Oa-sinh-tơn do kết quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất không còn phù hợp nữa”. (Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, Sđd, tr. 186). |
(Trang 23)
Trật tự Véc-xai – Oa-sinh-tơn do các nước thắng trận xác lập không mang lại hoà bình cho thế giới vì những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước không thể giải quyết.
Việc nước Đức phải chấp nhận những điều khoản nặng nề của Hoà ước Véc-xai đã dẫn tới những tổn thương dân tộc sâu sắc. Sự bất lực của Hội Quốc liên – tổ chức giám sát trật tự thế giới đã tạo điều kiện cho Đức cùng các nước phát xít khác tự do tái vũ trang và phát động chiến tranh.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, tạo điều kiện cho các lực phát xít lên cầm quyền ở Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản. Các thế lực phát xít là thủ phạm gây ra chiến tranh.
Các nước Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị để cứu vãn tình trạng khủng hoảng, đồng thời liên kết thành khối Liên minh phát xít hay còn gọi là phe Trục. Khối liên minh này vừa chống lại Quốc tế Cộng sản, vừa tăng cường các hoạt động quân sự và xâm lược nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. | Hình 3. Lễ khai mạc phiên họp Rây-xtắc, Hít-le làm Thủ tướng Đức. |
Hơn nữa, chính sách thoả hiệp, nhượng bộ của các nước phương Tây nhằm chia mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến.
Trong hiệp ước Muy-ních (9 – 1938), Anh – Pháp trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức, là đỉnh cao trong chính sách nhượng bộ của hai nước này để đổi lấy sự cam kết của Hít-le về việc chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu.
? 1. Khai thác Tư liệu 2 và thông tin trong mục, giải thích nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai. 2. Nguyên nhân bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai có điểm gì giống nhau? |
b) Hậu quả và tác động
Sau 6 năm (từ ngày 1 – 9 – 1939 đến ngày 15 – 8 – 1945) với các cuộc chiến bao trùm hầu hết các châu lục, đại dương, Chiến tranh thế giới thứ hai trở thành cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại.
Bảng 2. Thống kê số liệu về hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai
Danh mục thống kê | Số liệu |
1. Số nước tuyên bố tình trạng chiến tranh | 76 |
2. Số quân tham chiến (triệu người) | 110 |
3. Số người chết vì chiến tranh (triệu người) | 60 |
4. Số người bị thương và tàn tật (triệu người) | 90 |
5. Thiệt hại về vật chất (tỉ USD) | 4 000 |
(Theo Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, Sđtd, tr. 217)
Kết cục của chiến tranh đã tạo ra những chuyển biến căn bản của tình hình thế giới.
Thắng lợi của Liên Xô trong cuộc chiến chống phát xít đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và châu Á, thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, dẫn đến sự ra đời của các quốc gia độc lập ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh.
Chiến tranh làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng giữa các nước tư bản. Mỹ vươn lên trở thành siêu cường đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa. Một trật tự thế giới mới được hình thành – Trật tự hai cực I-an-ta với sự cần bằng quyền lực giữa hai siêu cường Liên Xô và Mỹ.
Sự ra đời của Liên hợp quốc với những nguyên tắc nền tảng trong quan hệ quốc tế về quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các quốc gia; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, tôn trọng luật pháp quốc tế,... đã mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị thế giới.
Hình 4. Lễ kí Hiến chương Liên hợp quốc ngày 26- 6-1945 tại Xan Phran-xi-cô (Mỹ)
(Trang 24)
? 1. Khai thác Bảng 1 (tr. 22) và Bảng 2 (tr. 24), em có nhận xét gì về hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới? 2. Đánh giá những tác động của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với lịch sử nhân loại. |
3. Cuộc đấu tranh vì hoà bình trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
a) Chính sách ngoại giao hoà bình của Liên Xô
- Sắc lệnh Hoà bình của Lê-nin
Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười giành được thắng lợi, một trong những sách lệnh đầu tiên được Chính quyền Xô viết thông qua vào ngày 26 – 10 – 1917 là Sắc lệnh Hoà bình do Lê-nin soạn thảo.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã xuất hiện một văn kiện lịch sử có giá trị như một cương lĩnh chống chiến tranh, thể hiện khát vọng hoà bình của nhân dân Nga nói riêng và nhân dân thế giới nói chung.
- Chính sách ngoại giao hoà bình của Liên Xô
Ngay từ buổi đầu thành lập, Liên Xô đã xác lập những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại là hoà bình, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cùng tồn tại hoà bình giữa các quốc gia có chế độ chính trị – xã hội khác nhau.
Liên Xô tham gia kí kết Hiệp ước chung về từ bỏ chiến tranh ở Pa-ri (8 – 1928) và là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn hiệp ước này.
Trong bối cảnh chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở một số nước, Chính phủ Liên Xô tích cực đấu tranh cho việc giải trừ quân bị hoàn toàn và có đóng góp cho cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và nền an ninh tập thể châu Âu.
Liên Xô hỗ trợ và tham gia lực lượng tình nguyện quốc tế ủng hộ Cộng hoà Tây Ban Nha chống lại phát xít Phran-cô trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936 – 1939).
? 1. Nêu ý nghĩa của Sắc lệnh Hoà bình năm 1917 của Lê-nin. 2. Phân tích khát vọng hoà bình và cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân Liên Xô thông qua chính sách ngoại giao của Liên Xô. |
b) Hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
Những hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất cho thấy sự cần thiết phải thiết lập một hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu để ngăn chặn chiến tranh.
(Trang 26)
Ngày 10 – 1 – 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập (sau đó có thêm 19 nước tham gia). Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng sự thành lập Hội Quốc liên đánh dấu bước phát triển mới trong hình thành cơ chế giám sát việc giải trừ quân bị, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới.
Hình 5. Hội nghị thành lập Hội Quốc liên ở Pa-ri (Pháp).
Trong thập kỉ 20 của thế kỉ XX, hàng loạt các hội nghị quốc tế về hoà bình, giải trừ quân bị diễn ra trong khuôn khổ Hệ thống Véc-xai – Oa-sinh-tơn. Tại Hội nghị Lô-các-nô (1925), các nước châu Âu đã kí kết hệ thống hiệp ước về việc xây dựng một hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu.
Theo sáng kiến của Pháp và Mĩ, Hiệp ước chung về từ bỏ chiến tranh được kí kết tại Pa-ri ngày 27 – 8 – 1928 với sự tham gia đại diện 15 nước (sau này tăng lên 57 nước).
Sự ra đời của Hội Quốc liên cùng với việc tổ chức các hội nghị quốc tế quan trọng đã cho thấy những nỗ lực của các nước trong việc xây dựng một hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu, góp phần gìn giữ hoà bình, an ninh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
? Vì sao việc thiết lập hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là cần thiết? |
c) Phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh
Trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới, các đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản đã thống nhất hành động với các đảng xã hội dân chủ và các lực lượng yêu nước, thành lập Mặt trận Nhân dân chống phát xít ở nhiều nước trên thế giới.
(Trang 27)
Ở Pháp, Mặt trận Nhân dân Pháp đã thực hiện một số cải cách tiến bộ, bảo vệ được nền dân chủ, đưa nước Pháp vượt qua được hiểm hoạ của chủ nghĩa phát xít. Ở Tây Ban Nha, Chính phủ Cộng hoà với sự hỗ trợ của Liên Xô và Lữ đoàn tình nguyện quốc tế đến từ 53 nước trên thế giới kiên quyết chống trả cuộc tấn công của lực lượng phát xít Phran-cô. |
Hình 6. Những chiến sĩ thuộc Lữ đoàn tình nguyện quốc tế tham gia bảo vệ nước Cộng hoà Tây Ban Nha |
Phong trào thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất diễn ra sôi nồi ở các nước thuộc địa, phụ thuộc nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh chống phát xít và nguy cơ chiến tranh.
Ở Đông Nam Á, Mặt trận Nhân dân In-đô-nê-xi-a đã lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, quyền tự quyết, chống phát xít và nguy cơ chiến tranh ở nước này.
Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập và hoạt động tích cực trong những năm 1936 – 1939, tập hợp các lực lượng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ.
Ở khu vực Mỹ La-tinh, trong những năm 1935 – 1939, Mặt trận Nhân dân được thành lập ở Mê-hi-cô, Chi-lê, Ác-hen-ti-na, Bra-xin,... đã tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền dân chủ và hoà bình.
? Cuộc đấu tranh vì hoà bình của nhân dân thế giới được thể hiện như thế nào qua phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh trong những năm 30 của thế kỉ XX? Cho biết ý nghĩa của phong trào đó. |
d) Phong trào kháng chiến chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai
- Phong trào chống phát xít ở châu Âu, châu Á, châu Phi
Cuộc kháng chiến chống phát xít của nhân dân thế giới góp phần quan trọng vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít, mang lại hoà bình cho nhân loại.
Phong trào kháng chiến ở các nước châu Âu góp phần quan trọng trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và bổ sung lực lượng cho quân Đồng minh, tiêu biểu là ở Ba Lan và Pháp.
Ở châu Á, Trung Quốc là một trong những mặt trận chính chống lại quân phiệt Nhật Bản. Trước Chiến tranh Thái Bình Dương (1941 – 1943), hơn 1,5 triệu quân Nhật đã thiệt mạng ở Trung Quốc.
(Trang 28)
Các lực lượng kháng chiến đã sát cánh cùng các lực lượng Đồng minh chống phát xít, khi có điều kiện thuận lợi thì chớp thời cơ tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
Ở Đông Nam Á, các nước Việt Nam, Lào, In-đô-nê-xi-a giành được độc lập trong năm 1945. Những năm sau đó, các nước Đông Nam Á khác lần lượt được trao trả độc lập.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nhật đã tạo điều kiện thuận lợi cho đảng Cộng sản Trung Quốc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đánh bại tập đoàn Tưởng Giới Thạch. Ngày 1 – 10 – 1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập.
Phong trào kháng chiến chống phát xít của nhân dân thế giới tạo tiền đề thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á. Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á đã cổ vũ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Phi và khu vực Mĩ La-tinh.
- Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô
Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt phát xít Đức ở châu Âu, mặt trận khốc liệt nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai và kết thúc chiến tranh ở châu Âu.
Hình 7. Cuộc diễu binh kỉ niệm 76 năm Ngày chiến thắng phát xít ở Thủ đô Mát-xcơ-va (ngày 9 – 5 – 2021).
Sức ác liệt và quy mô ở Mặt trận Xô – Đức vượt qua tất cả những mặt trận khác với những quân đoàn phát xít tinh nhuệ nhất, những trận đánh lớn nhất về số lượng binh lính và phương tiện kĩ thuật, mang tính quyết định sự xoay chuyển cục diện chiến tranh.
Liên Xô phải hứng chịu những tổn thất to lớn: gần 27 triệu người dân Liên Xô đã thiệt mạng, khoảng 4 triệu người bị thương và sát hại tại các khu trại của phát xít Đức, khoảng 4,5 triệu Hồng quân và sĩ quan đã bị bắt giữ.
(Trang 29)
Là lực lượng chủ lực trong việc tiêu diệt phát xít Đức ở châu Âu, Liên Xô ra khỏi chiến tranh với tư cách người chiến thắng và sau đó trở thành một trong hai siêu cường thế giới về kinh tế, quân sự. Chiến thắng của Liên Xô làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho phong trào cách mạng thế giới.
Với sự hỗ trợ của Liên Xô, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở thành một hệ thống thế giới. Chiến thắng của Liên Xô tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc, từng bước làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc tại châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ La-tinh.
? 1. Nêu ý nghĩa của phong trào kháng chiến chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. 2. Phân tích ý nghĩa cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô. |
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn