Nội Dung Chính
(Trang 98)
Một số điều cần lưu ý khi đọc văn bản:
- Nội dung các khái niệm đời sống vật thể và đời sống hình tượng được tác giả sử dụng trong văn bản.
- Vấn đề giá trị chủ quan của tác phẩm.
- Vai trò của người xem, người đọc trong việc giúp hình tượng nghệ thuật trường tồn.
- Cách triển khai các luận điểm trong văn bản.
Tiếp xúc với tác phẩm(*)
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
Thái Bá Vân(1)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Em Thúy
Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý(2) của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng có hai đời sống, hai tồn tại. Một là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tổn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
(*) Bài viết có năm phần, ở đây chỉ trích ba phần đầu (hai phần sau là Sự tương đồng nội tâm với tác phẩm; Để phê bình, nghiên cứu tác phẩm).
(1) Thái Bá Vân (1934–1999): quê ở tỉnh Nghệ An, là nhà nghiên cứu và phê bình mĩ thuật Việt Nam.
(2) Em Thuý: bức tranh sơn dầu sáng tác năm 1943 của danh hoạ Trần Văn Cẩn (1910-1994), được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2013.
(Trang 99)
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) (1) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vro (Louvre)(2) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là ở chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thuý. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 x 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thuý vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thuý rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong.... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thuý còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất hơn. Đó là Em Thuý hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thuý hình tượng là Em Thuý phi vật thể. Và chính đây mới là em Thuý tác phẩm, em Thuý nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyên chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thuý thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hể thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn “phản ánh đúng hiện thực”, cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thuý là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu để tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thuý là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thuý nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có hoạ sĩ Trần Văn Cẩn.
(1) Mô-na Li-da: còn được gọi là La Giô-công (La Gioconda), kiệt tác sơn dầu của hoạ sĩ vĩ đại Lê-ô-na đờ Vanh-xi (Leonardo da Vinci, 1452-1519).
(2) Lu-vrơ: viện bảo tàng nghệ thuật và lịch sử nổi tiếng bậc nhất thế giới ở Pa-ri (Paris), Pháp.
(Trang 100)
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là “Tuổi thơ”, hay “Học sinh tiên tiến”,... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là ở cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái (1). Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr. 8-10)
(1) Bùi Xuân Phái (1920 – 1988): quê ở Hà Nội, là danh hoạ Việt Nam, đặc biệt nổi tiếng với những bức tranh vẽ phố cổ Hà Nội.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn