Nội Dung Chính
(Trang 101)
Yêu cầu cần đạt
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện thơ dân gian như: cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, bút pháp miêu tả.
- Nhận biết và phân tích được ý nghĩa, tác dụng của yếu tố tự sự trong thơ trữ tình.
- Phân tích được ý nghĩa hay tác động của văn bản văn học trong việc làm thay đổi suy nghĩ, tình cảm, cách nhìn và cách thưởng thức, đánh giá của cá nhân đối với văn học và cuộc sống.
- Nắm bắt được các kiểu lỗi về thành phần câu, biết cách sửa lỗi và vận dụng vào việc sử dụng tiếng Việt của bản thân.
- Viết được văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại).
- Biết thảo luận về một vấn đề trong đời sống phù hợp với lứa tuổi; tranh luận một cách hiệu quả và có văn hoá.
- Biết đồng cảm, yêu thương con người; biết trân trọng vẻ đẹp thuỷ chung trong tình yêu.
ĐỌC
TRI THỨC NGỮ VĂN
Truyện thơ và truyện thơ dân gian
Truyện thơ thuộc loại hình tự sự, có cốt truyện, câu chuyện, nhân vật, lời kể,... nhưng lại được thể hiện dưới hình thức thơ. Với dung lượng tương đối lớn, truyện thơ có thể bao quát được nhiều sự kiện, con người, chi tiết cụ thể, sinh động của đời sống thường nhật. Cũng có một số truyện thơ còn lưu lại dấu ấn của sử thi nhưng ở đó cảm hứng thế sự vẫn nổi trội so với cảm hứng lịch sử hướng về những diễn biến lớn trong đời sống cộng đồng. Truyện thơ hiện diện trong nhiều nền văn học, có lịch sử lâu đời, phát triển thành một số dòng riêng theo sự chi phối của các điều kiện văn hoá, xã hội cụ thể.
Truyện thơ dân gian do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác; lưu hành chủ yếu bằng con đường truyền miệng nhưng cũng có khi thông qua các văn bản viết. Truyện thơ dân gian khai thác đề tài từ nhiều nguồn khác nhau như truyện cổ, sự tích tôn giáo hay những câu chuyện đời thường. Kế thừa
(Trang 102)
truyền thống của dân ca với sự kết hợp hài hoà yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình, các truyện thơ dân gian đã thể hiện được một cách sinh động đời sống hiện thực và những tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhiều lớp người trong xã hội, nhất là những người lao động nghèo. Ngôn ngữ trong truyện thơ dân gian giản dị, chất phác, giàu hình ảnh, gắn liền với cách tư duy hình ảnh rất đặc trưng của những người sống hoà đồng, gắn bó với đất đai, muông thú, cỏ cây,...
Do những điều kiện văn hoá, xã hội đặc thù, truyện thơ dân gian đặc biệt phát triển trong sinh hoạt văn hoá, văn học của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Ngoài một số truyện thơ có nội dung gần nhau bởi sự kế thừa, mô phỏng trong bối cảnh giao lưu văn hoá, mỗi dân tộc lại có riêng những truyện thơ tinh tuý, thể hiện được bản sắc của cộng đồng mình. Dân tộc Tày, Nùng có: Nam Kim – Thị Đan; Trần Châu; Quảng Tân – Ngọc Lương; Kim Quế; Chuyện chim sáo; Vượt biển;... Dân tộc Thái có: Tiễn dặn người yêu; Chàng Lú – nàng Ủa; Khăm Panh;... Dân tộc Mường có: Út Lót – Hồ Liêu; Nàng Nga – Hai Mối; Nàng Ờm – chàng Bồng Hương;... Dân tộc Mông có: Tiếng hát làm dâu; Nàng Dợ – Chà Tăng;... Dân tộc Chăm có: Hoàng tử Um Rúp và cô gái chăn dê; Têva Mưnô;... Dân tộc Khơ-me có: Si Thạch; Tum Tiêu;...
Yếu tố tự sự trong thơ trữ tình
Thơ trữ tình không đặt trọng tâm vào việc kể một câu chuyện mà ở đó có nhân vật, có tính cách, có bối cảnh không gian và thời gian với rất nhiều chi tiết cụ thể như truyện thơ, mà ưu tiên hàng đầu cho việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, thơ trữ tình không hề chối bỏ yếu tố tự sự, thậm chí, ở sáng tác của một số nhà thơ, yếu tố này khá đậm nét. Đọc một bài thơ trữ tình có yếu tố tự sự, độc giả dễ nhận ra bóng dáng của một câu chuyện, một sự kiện với những đường nét cốt yếu của nó. Câu chuyện lúc này có tác dụng làm nền cho tiếng nói trữ tình và luôn chịu sự chi phối của mạch cảm xúc mà tác giả triển khai. Do vậy, các câu chuyện thường chỉ được “kể” ở mức độ vừa đủ để cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ trọn vẹn.
VĂN BẢN 1
Lời tiễn dặn(*)
(Trích Tiễn dặn người yêu – truyện thơ dân tộc Thái)
Khởi động
- Hãy chia sẻ đôi điều về một truyện thơ bạn từng biết hay từng đọc (nhan đề, tác giả, nội dung tác phẩm,...).
- Hãy nhớ lại một tác phẩm (thuộc bất kì thể loại nào) có kể một câu chuyện tình yêu đã thực sự gây ấn tượng với bạn. Theo bạn, điều gì khiến tình yêu trở thành đề tài bất tận của văn học?
(*) Nhan đề văn bản được lấy theo sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr. 93.
Đọc văn bản
Chàng trai và cô gái yêu nhau tha thiết nhưng hoàn cảnh ngăn trở không cho họ được chung sống dưới một mái ấm hạnh phúc. Ngày cô gái phải về làm dâu nhà khác, chàng trai quyết đi theo trong vai người đưa tiễn để có cơ hội nói lời nguyện ước sắt son. |
Hình dung về bối cảnh câu chuyện. |
1. Quẩy gánh qua đồng rộng,
Người đẹp anh yêu cất bước theo chồng.
Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ót ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà(2) ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón(3) ngóng trông.
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ(4) đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em(5) mới chịu quay đi,
[...]
Chú ý cách diễn tả đẩy hình ảnh về tâm trạng của cô gái. |
Xin hãy cho anh kể vóc mảnh(6),
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi(7),
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Chú ý cách cư xử khác thường nhưng hoàn toàn hợp lí của chàng trai. |
(1), (2), (3) Lá ớt, lá cà, lá ngón: những lá độc hoặc được cho là độc, không đem lại điều may mắn. Cả ba dòng thơ diễn tả cảm xúc đau đớn của cô gái trên đường về nhà chồng, mong ngóng mãi mà chưa thấy người yêu.
(4) Nhủ: nhắn nhủ, tâm sự.
(5) Anh yêu em: tức là anh – người yêu của em.
(6) Vóc mảnh: dáng vóc mảnh mai.
(7) Lửa xác đượm hơi: ý nói sau này lửa thiêu xác anh (theo phong tục hoả táng của người Thái) sẽ cháy đượm vì thân anh luôn quyện hơi, quyện hương người yêu.
(Trang 104)
Cho anh bế con dòng(1) đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng(2) đừng buồn.
[…]
“Đôi ta yêu nhau đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ(3) cá về,
Đợi chim tăng ló(4) hót gọi hè,
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.”
[…]
2. – “Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ(5),
Dậy phủi áo kẻo lắm!
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ!"
Anh chặt tre về đốt gióng(6) đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa, hhun gióng giữa
Lam(7) ống thuốc này em uống khỏi đau.
Tơ rối đôi ta cùng gỡ,
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng(8);
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn(9),
Cảm nhận niềm thương xót của chàng trai khi chứng kiến tình cảnh của người yêu ở nhà chồng. |
(1) Con dòng: đứa con thuộc dòng dõi quý báu.
(2) Con rồng, con phượng: đứa con đẹp như rồng, như phượng; trong con mắt của chàng trai, cái gì thuộc về người yêu cũng đẹp đẽ, đáng nâng niu (kể cả đứa con mà nàng sinh với người chóng của mình).
(3) Mùa nước đỏ: mùa nước lũ.
(4) Chim tăng ló: một loài chim hót nhiều vào đầu mùa hè, giọng hót thường được cảm nhận là não nùng, buồn bã.
(5) Bọ: ở đây chỉ chung sâu bọ, côn trùng.
(6) Gióng: đoạn thân nằm giữa hai mắt của các loại cây như tre, nứa, mía,...
(7) Lam: nấu cơm, nấu thức ăn hay sắc thuốc với vật đựng là ống tre, ống nứa tươi (dùng thay cho nổi).
(8) Guồng: dụng cụ để cuốn sợi dệt vải, thường làm bằng tre, mây, có cán quay bằng gỗ.
(9) Thuôn: thon. Ở đây nói về cán của guồng quay sợi, có dáng thon, chuốt nhỏ dần về hai đầu.
(Trang 105)
Về với người ta thương thuở cũ.
Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi(1), ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
Hỡi gốc dưa yêu mọc ngoài cồn cát,
Nước ngập gốc đáng lụi(2), đừng lụi,
Nước ngập rễ đáng bềnh(3), đừng bềnh.
Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa(4) mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất,
Như bán trâu ngoài chợ(5),
Như thu lúa muôn bông(6).
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cúng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió(7), không rung không chuyển,
Người xiểm xui(8) không ngoảnh, không nghe.
Lời thề nguyên thuỷ chung được diễn tả như thế nào? |
(Mạc Phi dịch và giới thiệu, Tiễn dặn người yêu – Xống chụ xon xao,
NXB Văn học, Hà Nội, 1973, tr. 122-124, 126, 138-140)
(1) Muôi: dụng cụ múc canh giống như chiếc thìa (muỗng) nhưng có kích thước lớn hơn, có địa phương gọi là môi.
(2) Lại: tàn (ở đây nói về tình trạng cây bị úng, chết).
(3) Bềnh: nổi hẳn trên mặt nước (ở đây nói về việc cây bị nổi lên do nước ngập làm long rễ).
(4) Lú - Ủa: hai nhân vật chính trong truyện thơ Chàng Lú – nàng Ủa của người Thái (có nguồn gốc từ truyện cổ tích), có tình yêu son sắt, thuỷ chung.
(5), (6) Bán trâu ngoài chợ, thu lúa muôn bông: nói về tình trạng một vật khi đã bị bán đi (như trâu) hay đã thu hoạch (như lúa) thì không còn xác định được nó đã về đâu hay vốn tồn tại ở nơi nào. Điều này khác với lời yêu, dù đã trao nhưng không bao giờ mất.
(7) Tàn đời gió: hết trận gió, hết gió. Ý nói dù các hiện tượng thiên nhiên (như gió) không tồn tại nữa thì tình yêu vẫn còn mãi.
(8) Xiểm xui: nói lời không tốt với dụng ý xấu.
(Trang 106)
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn