Nội Dung Chính
(Trang 40)
VĂN BẢN 1
Nghệ thuật băm thịt gà
(Trích Việc làng)
Ngô Tất Tố
Trước khi đọc
• Theo bạn, ngoài lĩnh vực nghệ thuật chuyên nghiệp, người ta thường dùng “nghệ thuật” và “nghệ sĩ” để chỉ hoạt động hoặc con người như thế nào?
• Bạn hãy phân biệt tập tục (phong tục, tập quán) và hủ tục. Nêu ví dụ để làm rõ ý kiến của mình.
Đọc văn bản
Chú ý cách tác giả dẫn dắt vào không gian của câu chuyện.
Từ khi thôi học, tính ra đã gần mười năm, bây giờ tôi mới lại gặp Lăng Vân. Những chuyện tích lại trong một thời gian khá dài, lúc ấy được dịp xuất hiện, nó đã làm cho chúng tôi đều phải quên ngủ, tuy đêm đã khuya.
Ngoài sân trời tối như mực và mưa sùi sụt, nước mưa rả rích giội xuống đầu thềm, như thêm vẻ chứa chan cho mối tình cửu biệt(1).
Gà bắt đầu gảy. Dưới bếp bỗng có tiếng người khậm khoặc(2). Rồi thấy bóng đèn lập loè. Một lát sau, nghe có tiếng gà đập cánh phành phạch và kêu quang quác. Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Người nhà đã sắp làm cơm đấy sao?
Lăng Vân lắc đầu:
– Không! Sáng mai nhà tôi phải chứa hàng xóm(3).
Chứa xóm cố nhiên không phải là một đầu đề để nói chuyện. Chúng tôi làng ra chuyện khác. Đồng hồ điểm hai tiếng, mới cùng trùm chăn nằm ngủ.
__________________________
(1) Cửu biệt: cách xa lâu ngày.
(2) Khậm khoặc: tiếng ho khan (thường chỉ người ho lâu ngày chưa khỏi), khi ho âm thanh bị cản ở cổ họng.
(3) Chứa hàng xóm: mời dân làng đến nhà mình theo lệ của làng.
(Trang 41)
Giấc ngủ của tôi đương ngon, thình lình bị tan bởi mấy tiếng lộc cộc của guốc, và gậy nện xuống thềm gạch. Tôi bừng mắt ra, trời đã sáng rõ, trong nhà lố nhố mấy ông cụ già khăn áo tề chỉnh, Lăng Vân đang xoăn xoe chào mời các cụ một cách cung kính. Giữ lễ xã giao với người lạ, tôi vội tung chăn ngồi dậy và đường lúng túng chưa biết nên ở đó hay lánh đi đâu, Lăng Vân đã bung đến chỗ tôi ngồi một bộ bàn chè, một siêu nước sôi, bảo tôi cứ việc pha nước và uống tự nhiên.
Người đến mỗi lúc một đông. Già có, trẻ có, đứng bóng có. Toàn là đàn ông tất cả. Trong nhà giường phản chặt hết, người nhà phải quét cái thềm mưa ướt rờm rợp, rồi trải chiếu lên, để làm chỗ ngồi cho mấy ông tí nhau(1).
Hàng xóm vẫn lục tục kéo đến với những bàn chân đất lấm bệ bê. Ai cũng như nấy, sau khi đã đến bể nước giội qua, người ta đi nhón lên thềm, chùi chân vào cái chổi rơm làm phép, rồi bước xàm xạp lên chiếu.
– Sao không lấy gì mà che, lại đi đội trời thế kia! Nước mưa ướt cả đồ lễ!
Việc đan xen giữa yếu tố miêu tả, tự sự và ngôn ngữ đối thoại có hiệu quả như thế nào?
Tiếng thét dõng dạc của một ông già ở phản bên kia vừa dứt, thì ở dưới sân, một người vừa lù lù bưng mâm xôi gà lên thêm và đặt vào chiếc phản giữa. Rồi một người khác để luôn lên đó hai chai rượu lớn. Con gà cũng không nhỏ lắm, ước chừng một người ăn cố mới hết. Cổ xôi vừa kín cái lòng mâm đồng, nó phải độ bốn đấu gạo! Còn hai chai rượu thì đầy ăm ắp, hạng chai ba phần tư lít.
Mọi người ngồi yên, một ông đàn anh ra lệnh:
– Hàng xóm đã đến đông đủ! Thằng Mới đem làm cỗ đi!
Thì ra cái người đội mâm xôi gà lúc nãy chính là mõ(2) làng. Hắn dạ một tiếng thật dài rồi khép nép đứng tựa bên cột:
– Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?
Ông đàn anh ấy lại lên giọng
– Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại(3).
Thằng Mới liếc mắt một lượt từ trong nhà ra đến ngoài thềm, rồi thưa:
– Bẩm ba mươi người tất cả.
__________________________
(1) Tí nhau: trẻ con (hàm ý vui đùa, thân mật).
(2) Mõ: người chuyên đánh mõ rao việc làng thời trước, thường phải hứng chịu thái độ coi thường, định kiến của cộng đồng.
(3) Kiến tại: trông thấy tại chỗ.
(Trang 42)
Ở đầu dãy phản tay phải, thấy có tiếng hỏi:
– Hàng xóm ta mươi mấy suất, cụ còn nhớ không?
Rồi có tiếng đáp:
– Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm suất thể là tám mươi ba suất cả thảy.
Ông đàn anh vừa rồi nhìn vào thằng Mới:
– Vậy thì phải làm hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chứa(1), một cỗ cho mày, còn mười ba cỗ làm phần(2).
Câu nói của ông ấy khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Một con gà và bấy nhiêu xôi mà làm đến mấy chục cỗ, thì làm ra sao? Chắc là còn có món gì khác nữa. Tôi nghĩ như thế.
Nhưng mà không. Chẳng có chi hết. Người nhà chỉ bụng lên thềm hai thúng đĩa bát, một con dao, một cái thớt, một liễn nước mắm và hai chồng mâm.
Thằng Mới lễ mễ bưng mâm xôi gà ra thềm. Hắn nhấc con gà sang chiếc mâm khác, rồi chữa cổ xối hình tròn ra hình vuông.
Ồ lạ! Con gà làm được hơn hai chục cỗ, thật là một kì công! Tôi phải giả vờ đứng dậy ra sân để đến tận nơi mà coi cho rõ.
Thằng Mới đặt thủ con dao lên mặt cỗ xôi, hắn tính lẩm bẩm giây lát, rồi xắn một chiều làm sáu, một chiều làm bốn. Sau khi lấy một miếng xôi véo ra từng tí để phụ vào các miếng kia, hắn nhấc mâm xôi sang một bên cạnh và kéo cái thớt vào chỗ trước mặt. Cái thớt khí trũng, hắn gọi thằng nhỏ đổi cho cái khác và hắn lẩm bẩm một mình:
– Băm thịt gà cần phải dao sắc, thớt phẳng. Nếu mà dao cùn thớt trũng thì thịt sẽ bong hết da!
Vừa nói, hắn vừa với sang thúng đĩa lấy đủ chục chiếc, bày la liệt trên mặt thêm. Thằng nhỏ đã xách lên đó chiếc thớt mới nguyên, sắc gỗ nghiến còn đỏ đòng đọc.
Nhanh nhảu, hắn sờ ngón tay vào lưỡi con dao, xem có bén không. Và hắn lật cái trộn bát liếc luôn ba lượt thật mạnh. Bấy giờ mới giở đến bộ lòng gà. Mề, gan, tim, phổi, các thứ đều được thái riêng và được bày riêng vào một góc đĩa. Tuy nó chỉ một dúm con con, nhưng trong mười đĩa không đĩa nào thiếu một thứ nào.
__________________________
(1) Cỗ chứa: cỗ dành phần cho chủ nhà.
(2) Cỗ làm phần: cỗ chia phần mang về cho người vắng mặt.
(Trang 43)
Rồi hắn nhấc cả con gà ra thớt. Bắt đầu chặt lấy cái sỏ(1), sau mới chặt đến miếng phao câu. Thình lình thấy hắn đứng lên ngoảnh mặt vào phía mấy ông đàn anh:
– Thưa trình các cụ, hôm nay sỏ gà pha mấy? Phao gà pha mấy?
Một ông trong bọn nhìn qua vào đám nhiều tuổi, hình như để đếm đầu người, rồi đáp:
– Ở đây chỉ có năm cụ và bốn ông đàn anh. Vậy thì sỏ gà pha năm, phao gà pha bốn.
Chú ý cách kể, miểu tả chi tiết cùng thủ pháp “gây tò mò” về quá trình băm thịt gà.
Hắn lại ngồi xuống chỗ cũ. Trước hết ghè dao vào giữa hai miếng mỏ gà, để cắt cái sỏ ra làm hai mảnh. Rồi hắn úp cả đôi mảnh xuống thớt, chặt mảnh mỏ dưới làm đội và mảnh mỏ trên làm ba.
Tôi không biết những miếng thịt này có đều nhau không, chỉ thấy tất cả năm miếng, miếng nào cũng có dính một tí mỏ.
Tiếp đến cuộc pha phao câu. Công việc tuy không lấy gì làm khó, nhưng hắn làm cũng vẫn có vẻ khác người. Bốn miếng phao gà, miếng nào cũng có đầu bầu, đầu nhọn, chẳng khác một cái chũm cau(2) chẻ tư.
Sỏ gà bày vào một đĩa, phao gà bày vào một đĩa. Hắn lại cắt lấy hai chiếc cánh gà, chặt luôn làm hơn mười miếng và bày với đôi chân gà làm một đĩa nữa.
Bây giờ thì đến mình gà. Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà(3) bỏ ra góc mâm. Rồi, lật ngửa con gà lên thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh đều có một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình như tay hắn đã có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào cao, không nhất nào thấp. Mười nhát như một, nó chỉ lên khỏi mặt thớt độ một gang, và cách cái ngón tay hắn độ vài ba phân.
Các chi tiết miêu tả động tác, âm thanh khi băm thịt gà có tác dụng gì?
Tiếng dao công cốc đụng vào mặt tác, âm thanh khi băm thớt, nhịp nhàng như tiếng mõ của phường chèo(4), không lúc nào mau, cũng không có lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt gà băng ra. Miếng nào như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy may.
__________________________
(1) Sỏ: thủ, đầu.
(2) Chũm cau: núm hình chóp trên đầu trái cau.
(3) Tỏi gà: đùi gà chặt ra (giống hình củ tỏi).
(4) Phường chèo: tổ chức phần nhiều mang tính tự phát, gồm một nhóm người chuyên biểu diễn chèo lưu động trong không gian văn hóa Việt Nam ngày trước, chủ yếu hoạt động ở nông thôn.
(Trang 44)
Trông những miếng thịt gà của hắn bốc ra góc mâm, mới đẹp làm sao! Không giập, không nát, không bong da, nó giống như tập cánh con bươm bướm. Nếu để trước môi mà thổi, có thể bay được mười thước.
Băm xong con gà, hắn móc túi lấy một nắm tăm. Mỗi miếng thịt gà, hắn xâu cho một cái tăm vào giữa. Rồi hắn cắm vào mâm xôi. Cứ mỗi tảng xôi là bốn xâu thịt. Thịt vừa hết, xôi cũng vừa kháp. Té ra cái mình con gà, hắn đã băm được chín mươi hai miếng.
Lăng Vân cười và hỏi tôi:
Đoạn kết tạo ấn tượng thế nào cho người đọc?
– Anh đã chịu nghề băm thịt gà của ông Mới làng tôi chưa? Nhà hắn ba đời làm cái nghề ấy, thì mới thạo được như thế. Người khác dễ ai làm nổi!
Tôi chịu lắm. Và tôi muốn dâng cho ông Mới ấy cái chức nghệ sĩ.
(Ngô Tất Tố, Việc làng, NXB Hội Nhà văn –
Công ti cổ phần Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội, 2014, tr. 37 – 44)
Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ông là một nhà nho tinh thông cổ học, dịch giả và nhà nghiên cứu về tư tưởng triết học, văn học cổ; đồng thời là nhà báo, nhà văn có lối viết mới mẻ và sức viết dồi dào. Ngô Tất Tố được đánh giá là một trong những nhà văn hàng đầu của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Tắt đèn (đăng báo năm 1936, in sách năm 1939), Lều chõng (đăng báo năm 1939, in sách năm 1940) và phóng sự Việc làng (đăng báo năm 1940, in sách năm 1941),... Ngô Tất Tố được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
Việc làng là thiên phóng sự tái hiện toàn diện và rõ nét về đời sống nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh chính quyền thực dân phong kiến lợi dụng những tập tục lạc hậu ở thôn quê để thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột. Tác phẩm gồm 17 chương, xâu chuỗi theo một chủ đề chung, nhằm ghi lại, phân tích và phơi bày những hủ tục nhiêu khê, quái gỡ đang duy trì ở nông thôn và những hậu quả nghiêm trọng của nó. Những hủ tục ấy đã đẩy người dân quê vào cảnh cùng quẫn và tạo cơ hội để bọn cường hào, địa chủ nhũng nhiễu dân lành.
Nghệ thuật băm thịt gà thuộc chương IV của phóng sự Việc làng. Trong đoạn trích, nhà văn đã dùng lối ghi chép tại chỗ để thể hiện một cách khách quan và sinh động cảnh "chứa hàng xóm" ở thôn quê, trong đó nổi bật là việc nhân vật mõ làng băm thịt gà.
(Trang 45)
Sau khi đọc
1. Nhan đề của văn bản có thể gợi lên những suy luận, phán đoán gì về nội dung được đề cập trong bài phóng sự?
2. Các sự việc chính trong văn bản được tác giả thuật lại theo trình tự nào? Nhận xét về cách quan sát, ghi chép hiện thực của tác giả.
3. Cảnh anh mõ lăng băm thịt gà trong cuộc chia cỗ phần ánh hiện thực gì ở nông thôn Việt Nam xưa?
4. Nhận xét về tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất trong bài phóng sự.
5. Chỉ ra và phân tích những yếu tố tạo nên giọng điệu của bài phóng sự.
6. Theo bạn, những nội dung được đề cập trong văn bản còn có ý nghĩa đối với thực tiễn hiện nay không? Lí giải ý kiến của bạn.
7. Hãy khái quát đặc điểm cơ bản của thể loại phóng sự qua văn bản Nghệ thuật băm thịt gà.
Kết nối đọc – viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày cảm nhận về một khía cạnh nội dung hoặc nghệ thuật của văn bản Nghệ thuật băm thịt gà mà bạn tâm đắc.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn