Nội Dung Chính
(Trang 96)
VĂN BẢN 2
Trở về(*)
(Trích Ông già và biển cả(**))
Ơ-nít Hê-minh-uê (Ernest Hemingway)
Trước khi đọc
• Bạn đã từng đọc một cuốn sách hay xem một bộ phim mà trong đó nhân vật chính phải trải qua một cuộc hành trình tưởng chừng vượt quá sức mình chưa? Chia sẻ cảm nhận của bạn về chặng cuối trong cuộc hành trình đó.
• Nhan đề “Trở về" gợi cho bạn những suy nghĩ hay liên tưởng gì?
Đọc văn bản
“Chẳng còn gì”, lão nói lớn. “Ta đã đi quá xa.”
Không gian và thời gian khi ông lão trở về bến cảng được miêu tả như thế nào?
Khi lão dong chiếc thuyền cập vào bến nhỏ thì đèn đóm ở Thê-rếch-xơ (Terrace) đã tắt và lão biết mọi người đã đi ngủ. Gió càng ngày càng to và bây giờ đang thổi mạnh. Dù vậy bến cảng rất yên tĩnh và lão đưa thuyền lên trên một bãi cuội nhỏ bên dưới ghềnh đá. Không có ai giúp cả nên lão đã kéo thuyền lên đến mức xa nhất có thể. Rồi lão bước ra và buộc thuyền vào một tảng đá.
Lão tháo cột buồm, cuộn và buộc cánh buồm lại. Rồi lão vác cột buồm lên vai và bắt đầu trèo lên. Đó là lúc lão biết mình đã mệt đến chừng nào. Lão dừng lại một chốc và ngoảnh lại và nhìn thấy cái đuôi khổng lồ của con cá đang dựng thẳng sau đuôi thuyền trong ánh sáng phản chiếu từ đèn đường. Lão nhìn thấy đường nét trần trụi màu trắng của xương sống và khối sẫm màu của cái đầu với lưỡi kiếm nhô ra cùng tất cả sự trống rỗng ở khoảng giữa.
Lão lại bắt đầu leo lên dốc rồi trên đỉnh dốc lão ngã xuống và nằm một lát với cột buồm vắt qua vai. Lão cố ngồi dậy. Nhưng điều đó là quá khó và lão ngồi đó với cột buồm trên vai và nhìn ra đường. Một con mèo đi ngang qua đường phía xa để làm cái gì đó và lão già ngắm nhìn nó. Rồi lão chỉ ngắm nhìn con đường mà thôi.
__________________________
(*) Nhan đề văn bản do người biên soạn sách giáo khoa đặt.
(**) Nhan đề tiếng Anh là The Old Man and the Sea.
(Trang 97)
Cuối cùng lão đặt cột buồm xuống và đứng dậy. Lão nhấc cột buồm đặt lên vai và bắt đầu bước đi. Lão đã phải ngồi xuống nghỉ năm lần trước khi đến được lán của mình.
Chú ý tư thế nằm ngủ của nhân vật – một tư thế gợi liên tưởng đến hình ảnh Chúa Giê-su (Jesus) trên cây thập giá.
Vào trong lán, lão dựa cột buồm vào tường. Trong bóng tối lão tìm thấy một chai nước và uống một ngụm. Rồi lão nằm xuống giường. Lão kéo chăn trùm lên đôi vai rồi phủ lên lưng, chân và lão nằm sấp mặt lên đống báo mà ngủ với hai cánh tay duỗi thẳng và lòng bàn tay ngửa lên.
Lão vẫn đang ngủ khi thằng bé ngó qua cửa vào buổi sáng. Gió thổi mạnh đến nỗi những chiếc thuyền trôi nổi không ra khơi được và thằng bé đã ngủ dậy muộn và đi đến lán của lão như nó vẫn đến mỗi sáng. Thằng bé nhìn thấy ông lão đang thở và rồi nó nhìn thấy hai bàn tay của lão và nó bắt đầu khóc. Nó lặng lẽ đi ra ngoài để lấy chút cà phê và nó cứ khóc suốt cả dọc đường.
Nhiều ngư dân vây quanh chiếc thuyền để xem thứ đang buộc vào mạn thuyền và một ngư dân lội xuống nước, ống quần xắn lên, dùng một sợi dây đo chiều dài bộ xương. Thằng bé không đi xuống đó. Nó đã đến đó rồi và một trong những ngư dân đang trông chiếc thuyền cho nó. “Ông lão thế nào rồi?”, một người hét lên. “Đang ngủ”, thằng bé đáp. Nó không để tâm đến chuyện họ nhìn thấy nó khóc. “Đừng để ai làm phiền ông ấy”. “Nó dài mười tám feet(1) từ mũi đến đuôi”, người đang đo bộ xương kêu lên.
Lời nói và hành động của các ngư dân cho biết điều gì về cảm nhận của họ trước bộ xương con cá kiếm?
“Cháu tin là thế”, thằng bé nói.
Nó đi đến Thể-rếch-xơ và hỏi mua một lon cà phê.
“Nóng với nhiều đường và sữa.”
“Còn gì nữa không?”
“Không ạ. Rồi cháu sẽ xem ông ấy có ăn được gì không”
“Quả là một con cá ra trò”, chủ khách sạn nói. “Chưa từng có con cá nào như vậy. Hai con cá cháu bắt được hôm qua cũng rất được đấy.”. “Chết tiệt mấy con cá của cháu”, thằng bé nói và nó lại bắt đầu khóc.
“Cháu có muốn lấy đồ uống gì không?”, chủ khách sạn hỏi.
“Không ạ”, thằng bé nói. “Bảo với họ đừng quấy rầy Xan-ti-a-gô (Santiago), cháu sẽ quay lại.”
__________________________
(1) Feet: đơn vị đo chiều dài, được sử dụng phổ biến ở các nước Anh, Mỹ; 1 feet = 30,48 cm.
(Trang 98)
“Bảo ông ấy là bác rất tiếc nhé.”
“Cảm ơn bác”, thằng bé nói.
Thằng bé mang lon cà phê nóng lên lán của ông lão và ngồi kế bên cho đến khi lão tỉnh dậy. Có một lúc hình như lão sắp thức giấc. Nhưng rồi lão lại chìm vào giấc ngủ say và thằng bé băng qua đường để xin một ít củi hâm nóng cà phê.
Cuối cùng ông lão đã tỉnh dậy.
“Đừng ngồi dậy”, thằng bé nói. “Uống cái này đi.”
Cậu rất một ít cà phê vào cốc.
Ông lão cầm lấy và uống hết.
Chú ý ngôn ngữ đối thoại giữa ông lão và cậu bé.
“Chúng đã đánh bại ông Ma-nô-lin (Manolin) ạ”, lão nói. “Chúng thật sự đánh bại ông.”
“Nó không đánh bại được ông. Không phải là con cá ấy."
“Không. Thật đấy. Là lúc sau đó ấy.”
“Pê-đri-cô (Pedrico) đang trông coi thuyền và các thứ. Ông muốn làm gì với cái đầu ạ?”
“Để Pê-đri-cô băm nó ra làm mồi bẫy cá.”
“Còn lưỡi kiếm?
“Nếu cháu muốn thì cứ giữ lấy nó.”
“Cháu muốn”, thằng bé nói. “Bây giờ chúng là phải lên kế hoạch cho những việc khác.”
“Họ có tìm ông không?
“Tất nhiên rồi. Cùng với đội bảo vệ bờ biển và máy bay nữa.”
“Đại dương thì rất rộng lớn và chiếc thuyền thì nhỏ và khó nhìn ra được”, ông lão nói. Lão nhận ra thật dễ chịu khi có ai đó để nói chuyện cùng thay vì chỉ nói với chính mình và với biển cả. “Ông nhớ cháu”. Lão nói. “Cháu đã bắt được gì thế?”
“Một con vào ngày đầu tiên. Một con vào ngày thứ hai và hai con vào ngày thứ ba.”
“Giỏi đấy.”
“Bây giờ chúng ta lại đi câu cùng nhau.”
“Không. Ông không may mắn. Ông không còn vận may nữa.”
“Chết tiệt với cái vận may”, thằng bé nói. “Cháu sẽ mang vận may của cháu theo."
(Trang 99)
“Mọi người ở nhà cháu sẽ nói sao?”
“Cháu không quan tâm. Hôm qua cháu đã bắt được hai con. Nhưng giờ thì chúng ta sẽ đi câu cùng nhau vì cháu còn phải học nhiều thứ lắm.”
“Chúng ta phải tìm một cây lao độ thật sắc bén và phải luôn luôn giữ nó trên thuyền. Cháu có thể làm lưỡi dao từ một cái nhíp của xe Ford cũ. Chúng ta có thể đem nó đến Coa-na-ba-cô-a (Guanabacoa) để mài. Nó phải thật sắc bén và không luyện quá lửa để khỏi bị gãy. Dao của ông gãy rồi.”
“Cháu sẽ tìm một con dao khác và sẽ mang mài cái nhíp.”
“Biển động mất mấy ngày nhỉ?”
“Có thể là ba ngày. Có thể hơn.”
“Cháu sẽ thu xếp mọi thứ”, thằng bé nói. “Ông cụ chữa cho tay lành lại đã.”
“Ông biết cách chăm sóc chúng mà. Vào ban đêm ông khạc ra thứ lạ lùng gì đó và cảm thấy như có cái gì trong lồng ngực vỡ ra.”. “Chữa cả cái đó nữa”, thằng bé nói.
“Nằm xuống đi, ông ơi, và cháu sẽ mang cho ông cái áo sạch. Và thứ gì đó để ăn.”
“Mang cho ông bất kì tờ báo nào trong lúc ông đi vắng nhé”, lão nói.
“Ông phải bình phục thật nhanh vì có nhiều thứ cháu phải học và ông có thể dạy cháu mọi thứ. Ông có đau nhiều không?
“Nhiều lắm”, lão nói.
“Cháu sẽ mang thức ăn và báo đến", thằng bé nói. “Nghỉ ngơi di ông ạ. Cháu sẽ đi ra hiệu thuốc mua thuốc chữa tay của ông nữa.”
“Nhớ bảo Pê-đri-cô rằng cái đầu là của anh ấy.”
“Vâng. Cháu nhớ rồi.”
Khi thằng bé ra khỏi cửa và đi xuống con đường mòn rải đá san hô nó lại tiếp tục khóc.
Chiều hôm đó có một bữa tiệc của nhóm khách du lịch ở Thê-rếch-xơ và khi nhìn xuống làn nước giữa những lon bia rỗng và những xác cá, một người phụ nữ trông thấy bộ xương sống to lớn màu trắng với một cái đuôi khổng lồ ở phần cuối cứ nổi lên và đung đưa theo thuỷ triều khi gió đông thổi qua vùng biển cuộn sóng bên ngoài lối vào bến cảng.
“Cái gì thế kia?”. Cô hỏi người bồi bàn và chỉ vào bộ xương sống dài của con cá khổng lồ giờ chỉ còn là rác rưởi chờ thuỷ triều cuốn đi.
(Trang 100)
Giải thích tình huống hiểu lầm trong đoạn này.
“Ti-bu-ron (Tiburon)”, người bồi bàn nói. “Cá mập”
Anh ta định giải thích về chuyện đã xảy ra.
“Tôi không biết là cá mập lại có bộ đuôi phom dáng đẹp đẽ như vậy.
“Anh cũng thế”, người đàn ông đi cùng cô ta nói.
Những hình ảnh được sử dụng trong đoạn kết của văn bản có gì đặc biệt?
Phía ngoài đường, trong cái lán của mình, ông lão lại đang ngủ tiếp. Lão vẫn ngủ trong tư thế úp mặt xuống và thằng bé ngồi bên cạnh nhìn lão ngủ. Lão đang mơ về những con sư tử.
(Linh Nguyễn dịch, http://nguvan.hnue.edu.vn, ngày 06/5/2023)
Ơ-nít Hê-minh-uê
Ơ-nít Hê-minh-uê (1899 – 1961) là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của nền văn học hiện đại Mỹ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được coi là một điển hình cho “thế hệ lạc lối” – danh xưng chỉ lớp người trưởng thành trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và phải gánh chịu những di hại tinh thần nặng nề của sự kiện này. Ông cũng là người đưa ra “nguyên lí tảng bằng trôi” trong sáng tác văn học, theo đó những ngôn từ nhà văn viết ra chỉ là phần nổi của tảng băng, còn ý nghĩa thực sự của tác phẩm nằm ở phần chìm của nó.
Các tiểu thuyết tiêu biểu của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1962), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940), Ông già và biển cả (1952). Năm 1954, Hê-minh-uê được trao giải Nô-ben (Nobel) Văn học.
Ông già và biển cả là tiểu thuyết ngắn của Hê-minh-uê giành giải thưởng Pu-lít-dơ (Pulitzer) cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Tác phẩm kể câu chuyện về một ngư dân già người Cu Ba tên là Xan-ti-a-gô. Không bắt được con cá nào trong suốt tám mươi tư ngày, ông bị mọi người coi là kẻ mang vận rủi. Ma-nô-lin, câu bé học việc và người bạn nhỏ của Xan-ti-a-gô, cũng bị cha mẹ buộc phải rời xa ông để làm việc trên một con thuyền khác. Tuy nhiên, Ma-nô-lin vẫn thường xuyên tới thăm và mang đồ ăn, thức uống cho ông. Họ trò chuyện về việc đánh bắt cá, về bóng chày và về những con sư tử trên bãi biển mà Xan-ti-a-gô đã nhìn thấy ở châu Phi khi ông bằng tuổi cậu bé bây giờ.
Ngày thứ tám mươi lăm, Xan-ti-a-gô quyết định dong thuyền đi tới vùng biển xa phía bắc với niềm tin rằng vận may sẽ trở lại với mình. Giữa biển khơi bao la, ông vừa làm việc vừa nói chuyện với biển cả, với các sinh vật xung quanh, và với chính mình. Đôi khi ông ước có Ma-nô-lin ở bên để chia sẻ công việc và những trải nghiệm. Đến trưa, một con cá đã mắc câu mà Xan-ti-a-gô tin là con cá kiếm khổng lồ, nhưng ông không thể kéo nó vào bờ được. Suốt hai ngày đêm, ông và con cá giằng co vật lộn với nhau. Xan-ti-a-gô cố gắng giữ con cá không tuột khỏi dây trong khi nó kéo chiếc thuyền càng lúc càng xa đất liền. Trong cuộc chiến đó, ông cảm thấy ngưỡng mộ sức mạnh và sự kiên cường của con cá kiếm, đồng cảm với nó như một người bạn, một người anh em, thậm chí như thề nó và mình đã hòa làm một. Mặt khác, mặc dù thiếu ngủ, bị thương ở tay và vô cùng đau dớn nhưng ông quyết không bỏ cuộc.
(Trang 101)
Sang ngày thứ ba, con cá kiếm bơi chậm lại quanh chiếc thuyền. Xan-ti-a-gô, lúc này gần như kiệt sức, kéo con cá lại gần thuyền và dâm chết nó bằng cây lao. Ông quay thuyền trở về và nghĩ đến những gì có thể làm với con cá kiểm khổng lồ đó. Con cá dài hơn cả chiếc thuyền nên Xan-ti-a-gô phải buộc nó ở mạn thuyền. Trong tình cảnh đó, có những lúc ông nghĩ không biết mình đang đưa con cá trở vé hay con cá dang đưa mình trở về.
Máu từ vết đâm trên mình con cá kiếm đã thu hút lũ cá mập. Một con cá mập khổng lồ tấn công và xé mất một miếng lớn trên mình con cá kiếm. Xan-ti-a-gô dùng cây lao đâm chết con cá mập, nhưng cũng dánh mất cây lao vì nó. Những con cá mập khác tiếp tục kéo đến. Xan-ti-a-gô chiến dấu với chúng băng một cây lao tự tạo bằng cách buộc con dao vào mái chèo, rồi khi dao gấy, ông chiến đấu bằng cây gậy. Tuy nhiên, lũ cá mập quá đông và chúng đã rỉa hết thịt trên mình con cá kiếm. Xan-ti-a-gô rủa lũ cá mập, cảm thấy hối tiếc cho cả mình lẫn con cá kiếm, và tự trách đã đưa thuyền đi quá xa.
Xan-ti-a-gô trở về đất liền trong đêm tối, dùng hết sức lực còn lại để đưa chiếc thuyền cùng với cái đầu và bộ xương khổng lồ của con cá kiếm vào bờ. Sau đó, ông về lán và lăn ra ngủ.
Trở về là đoạn trích nằm ở phần cuối của tiểu thuyết Ông già và biển cả.
Sau khi đọc
1. Theo bạn, đoạn trích Trở về có thể được chia làm mấy phần? Các phần có liên hệ với nhau như thế nào?
2. Cuộc đối thoại giữa Xan-ti-a-gô và Ma-nô-lin trong đoạn trích là cuộc đối thoại dài nhất trong tác phẩm Ông già và biển cả. Nội dung và hình thức cuộc đối thoại cho ta biết những gì về quan hệ giữa hai nhân vật?
3. Nêu diễn biến tâm lí của nhân vật Xan-ti-a-gô trong đoạn trích
4. Trong đoạn trích, tác giả đã miêu tả hành động "khóc" của Ma-nô-lin bao nhiêu lần? Hãy lí giải về hành động này của nhân vật.
5. Trước bộ xương của con cá kiếm, các nhân vật Ma-nô-lin, nhóm ngư dân, chủ khách sạn và hai du khách đã có thái độ khác nhau như thế nào?
6. Nêu đặc điểm của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại trong đoạn trích (chú ý liên hệ với "nguyên lí tảng băng trôi" của Hê-minh-uê).
7. Theo bạn, đoạn kết truyện có thể gợi mở những ý nghĩa và liên tưởng gì?
8. Chuyến đi của Xan-ti-a-gô có phải là một chuyến đi thất bại hay không? Tại sao? Nếu coi nhân vật Xan-ti-a-gô là một biểu tượng, thì theo bạn, đó là biểu tượng của điều gì?
Kết nối đọc – viết
Trong tiểu thuyết Ông già và biển cả, khi miêu tả nhân vật Xan-ti-a-gô một mình giữa biển khơi, Hê-minh-uê đã viết: "Ông lão biết rằng không ai phải cô đơn nơi biển cả". Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) chia sẻ cảm nhân của bạn về điều này sau khi học đoạn trích Trở về.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn