Nội Dung Chính
(Trang 156)
Yêu cầu cần đạt
• Hệ thống hoá những kiến thức đã học trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một.
• Phát triển kĩ năng đọc, viết, nói và nghe thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trong các bài tập.
• Vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học và rèn luyện vào việc giải quyết những bài tập mang tính tổng hợp.
I. HỆ THỐNG HOÁ KIẾN THỨC ĐÃ HỌC
1. Lập bảng tổng hợp hay vẽ sơ đồ tư duy về danh mục các loại, thể loại và nhan đề các văn bản đọc trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một.
2. Trình bày khái quát những kiến thức thu nhận được về đặc điểm từng loại, thể loại văn bản đọc đã học trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một theo bảng gợi ý sau:
STT | Loại, thể loại | Đặc điểm (nội dung và hình thức) |
1 | Sử thi | |
2 |
3. Tổng hợp các nội dung thực hành tiếng Việt đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một theo bảng gợi ý sau:
STT | Nội dung thực hành | Ý nghĩa của hoạt động thực hành |
1 | ||
2 |
4. Liệt kê các kiểu bài viết đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một và nêu vắn tắt yêu cầu của từng kiểu bài theo bảng gợi ý sau:
STT | Kiểu bài viết | Yêu cầu của kiểu bài viết |
1 | Văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện | |
2 |
(Trang 157)
5. Nhớ lại các nội dung của hoạt động nói và nghe đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một và cho biết:
– Nội dung nói và nghe nào đã từng quen ở cấp học Trung học cơ sở? Yêu cầu nâng cao đối với các nội dung nói và nghe đó là gì?
– Nội dung nói và nghe nào lần đầu được thực hiện với sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập một? Nêu những thách thức của nội dung nói và nghe đó.
II. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG
1. ĐỌC
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông(*) ------------- Lê Trí Viễn ------------- 1 [...] Bài thơ tả một cảnh thôn quê như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều xuống. Đơn sơ đường nét: mấy nhà dân quây quần, có trước, có sau, mấy trẻ mục đồng véo von tiếng sáo đưa trâu về chuồng, dăm ba đôi cò sà xuống ruộng. Thanh đậm sắc màu: một làn khói mỏng phớt lên xóm thôn, ánh chiều tà còn lưu luyến, cò trắng lúa xanh. Trừ tiếng sáo và tiếng chân trâu, không còn động tĩnh nào. Ánh chiều lan lặng lẽ, cò là là không tiếng. Một bức tranh thuỷ mặc. Có mà không. Động mà tĩnh. Nhà thơ là thiền sư, con mắt thế tục nhưng tâm thiền. 2 [...] Nói gì một cảnh như vậy? Không thể nào khác là một cảnh thanh bình, yên ả, phơn phớt chút tươi vui hiền lành, thầm lặng phát ra từ một cuộc sống có phần ấm no, hạnh phúc. Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên, Bán vô, bán hữu, tịch dương biên. Đạm tự yên là nhạt như khói. Khói gì? Làn sương từ mặt đất dâng lên theo chiều xuống nơi nương dâu ruộng lúa đang lên xanh? Hay là khói thổi cơm chiều ngây ngây mùi rơm rạ mà cũng là mùi cả nhà sum vầy chuẩn bị bữa cơm rau mắm nhưng ấm no sau một ngày nắng sương vất vả? Tịch dương là chiều tà. Chiều đã tà nhưng xóm thôn chưa đi vào hoàng hôn hẳn. Còn vương vấn đây đó trên đọt cau, mái rạ đôi mảng ánh vàng như một xác nhận của trời đất niềm hi vọng ấm lòng đã trở về với cuộc sống người dân sau bao cơn binh hoả. Mọi sự náo loạn, đốt phá, cướp bóc, giết chóc huỷ diệt dã man của giặc đã qua. Sương ấy là hơi cây cỏ, đất và nước đã nuôi lúa lên xanh, khói kia là khói quây quần sum họp.... Cái tầm thường sau tai biến ngút ngàn trở thành quý báu gấp bội. -------------------------------------- (*) Nhan đề do người biên soạn sách giáo khoa đặt. |
(Trang 158)
3 Vẫn còn cảnh tượng kì lạ này cực hiếm xưa nay: Mục đồng địch lí ngưu quy tận Địch lí là trong tiếng sáo. Trong tiếng sáo trẻ chăn trâu, đàn trâu về chuồng hết. Có mặt một con trâu là bằng chứng không còn tên giặc nào. [...] Đây là đàn trâu no nê, chậm rãi về nhà. Trên lưng lại vắt vẻo mấy chú trẻ con nghêu ngao tiếng sáo tiễn ngày, nâng nhịp cho trâu từ tốn, nhịp nhàng, ung dung, thư thả, da đen lánh, bụng căng tròn, từng bước về làng. Có ai ngờ: trâu đi trong tiếng nhạc... chữ nghĩa đích vậy. Một cảm nhận kì lạ, một nỗi reo mừng của ý thơ. Đâu chỉ là kể chuyện, tả cảnh. Đã là một bừng sáng thăng hoa của tâm thức, một thần ý, một xúc động tinh vi đến độ tột cao. [...] 4 Còn một niềm vui khác, thanh tao hơn cũng trở lại theo: Bạch lộ song song phi hạ điền Bạch lộ là cò trắng. Lúa đang lên xanh, chân ruộng xắp nước, cò rủ nhau xuống ruộng kiếm ăn. Một nét vui đồng ruộng nhưng được nhấn mạnh, tách riêng từng đôi. Dường như giấu trong đó một niềm vui hạnh phúc tình yêu, hoặc cao hơn, một nét sinh sôi của sự sống. Từng đôi có trống có mái chứ không tán loạn, tan tác như thời còn giặc. Cả một cảnh êm ả như dàn ra, bao bọc cho những lứa đôi này: cò trắng, lúa xanh, cá tôm dưới gốc. Chuẩn bị sẵn sàng, kín đáo cho no ấm và cho hạnh phúc sinh sôi. [...] 5 Cảnh giản đơn, đạm bạc, quê mùa mà sức chứa đựng lớn lao, kì vĩ. Không núi cao sông rộng không thời gian “nghìn năm mây trắng còn bay”, không không gian “vạn lí thiên”, chỉ một khoảnh khắc chiều tà, một góc xóm nhà dân giữa dăm vạt ruộng nương vậy mà là âm vang của cả non sông, đất nước hồi sinh sau khi sạch bóng quân thù - một quân thù khét tiếng, đến đâu là ở đó cỏ cũng không còn mọc nữa. 6 Một người dân thường nhìn ra cảnh này vào thời buổi lịch sử hào hùng ấy với một nỗi hạnh phúc thanh bình tràn ngập cũng đã lạ. Ở đây lại là trong tầm mắt và tầm nghĩ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ. Ông vua ấy – Trần Nhân Tông – đúng là đã tự thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian khổ biết chừng nào mới đánh đuổi được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho dân cảnh sống thanh bình này. Trong xúc cảm sâu xa nhất của người là một sợi khói trên mái rạ lúc chiều buông, một ánh chiều còn nhuộm vàng đọt cau, tán đa, một cánh cò bình yên trên ruộng; thậm chí, bất ngờ nhất, một bước chân trâu ung dung, no nê, chậm rãi lắng nghe tiếng sáo véo von của trẻ mục đồng, từng bước chắc nịch trở về làng cũng reo vui sâu xa tận trong lòng ông: “Ở đất nước này, vừa qua, đúng là để có được một bước chân trâu đi thanh bình phải trả bằng bao nhiêu xương máu, xương máu dân, cả xương máu mình”. 7 Đúng là một ông vua thuở Lý – Trần, vua còn gần gũi với dân, chưa có sự xa cách chín trùng mười lớp như về sau. [..] (Lê Trí Viễn, Đến với thơ hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 72 – 75) |
(Trang 159)
Chọn phương án trả lời đúng nhất cho mỗi câu hỏi:
1. Văn bản thuộc loại nào ?
A. Văn bản văn học
B. Văn bản thông tin
C. Văn bản nghị luận
D. Văn bản đa phương thức
2. Câu nào trong bài viết khái quát đầy đủ đặc trưng của cảnh vật được gọi lên từ bài thơ Thiên Trường vãn vọng?
A. Bài thơ tả một cảnh thôn quê như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều xuống.
B. Cảnh giản đơn, đạm bạc, quê mùa mà sức chứa đựng lớn lao, kì vĩ.
C. Không thể nào khác là một cảnh thanh bình, yên ả, phơn phớt chút tươi vui hiền lành, thầm lặng phát ra từ một cuộc sống có phần ấm no, hạnh phúc.
D. Chiều đã tà nhưng xóm thôn chưa đi vào hoàng hôn hẳn.
3. Bài viết được triển khai theo trình tự nào?
A. Phân tích lần lượt từng câu thơ một.
B. Giảng nghĩa từ ngữ trước, sau đó đi vào phân tích ý nghĩa các câu thơ và bài thơ.
C. Phân tích văn bản thơ, tiếp đó mở rộng liên hệ tới hoàn cảnh sáng tác và vị thế của tác giả bài thơ.
D. Nêu cảm nhận chung về bài thơ, phân tích bài thơ, đánh giá ý nghĩa của bài thơ.
Trả lời câu hỏi:
1. Những câu nào trong văn bản cho thấy tác giả Lê Trí Viễn thường xuyên đặt bài thơ vào bối cảnh ra đời của nó để thẩm bình, đánh giá?
2. Những hiểu biết về con người và vị thế xã hội của Trần Nhân Tông đã giúp tác giả bài viết khám phá được giá trị nổi bật gì của Thiên Trường vãn vọng?
3. Những yếu tố nào của thơ nói chung đã được đặc biệt lưu ý xem xét, phân tích trong văn bản này?
2. VIẾT
Chọn một trong các đề sau:
Đề 1. Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học mà bạn yêu thích.
Đề 2. Khi được học về thần thoại và sử thi, vấn đề gì đã khiến bạn thực sự thấy hứng thú và muốn tìm hiểu sâu hơn? Hãy viết một báo cáo nghiên cứu về vấn đề đó.
Đề 3. Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm mà bạn cho là không phù hợp với chuẩn mực chung được cộng đồng tạo dựng.
3. NÓI VÀ NGHE
Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung nói và nghe sau:
Nội dung 1. Thảo luận về một vấn đề đời sống hoặc văn học có nhiều ý kiến khác nhau do các bạn tự chọn, dựa trên những hiểu biết và trải nghiệm riêng của mình (chú ý sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ).
Nội dung 2. Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học (thơ trữ tình, truyện thần thoại, sử thi, kịch bản chèo, tuồng dân gian,...) theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học.
Nội dung 3. Lớp học của bạn đã có những hoạt động trải nghiệm gì trong thời gian qua? Hãy lập đề cương cho bản báo cáo kết quả của một trong những hoạt động trải nghiệm đó và trình bày trước nhóm học tập.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn