Nội Dung Chính
Trang 42
• Bạn thấy có những từ ngữ nào mới xuất hiện trong thời gian gần đây? Bạn có dùng những từ ngữ ấy không và dùng trong trường hợp nào? • Trong khi có nhiều từ ngữ mới xuất hiện thì cũng có một số từ ngữ từng được dùng phổ biến nhưng nay dường như bị biến mất. Thử tìm một vài từ ngữ như vậy. |
I. TÌM HIỂU TRI THỨC
1. Khái quát về sự phát triển của tiếng Việt
a. Sự phát triển của tiếng Việt theo quy luật chung
Ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng, không phải là hiện tượng bất biến mà luôn luôn vận động và phát triển theo sự vận động, phát triển của đời sống nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tiếng Việt đã có nhiều thay đổi, từ ngữ âm đến từ vựng, ngữ pháp, trong đó, đáng kể nhất là từ vựng. Bên cạnh việc cấu tạo nên những từ ngữ mới dựa trên các yếu tố vốn có trong hệ thống, ví dụ: điện thoại di động (kết hợp giữa điện thoại và di động), sốt giá (kết hợp giữa sốt và giá)
b. Sự phát triển của tiếng Việt hiện nay
Khác với các giai đoạn trước đây, hiện nay, tiếng Việt đương đại đang phát triển dưới sự tác động mạnh mẽ của một số nhân tố mới như:
– Sự phát triển nhanh chóng của đời sống đất nước ở tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá... và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với thế giới làm xuất hiện nhiều từ ngữ mới. Nhiều sự vật, hiện tượng mới xuất hiện trong khoảng thời gian ngắn đã thúc đẩy từ vựng tiếng Việt phát triển nhanh chưa từng có, trong đó chiếm tỉ lệ không nhỏ là những từ ngữ được vay mượn từ các ngôn ngữ khác, đặc biệt gần đây là từ tiếng Anh.
– Việc ứng dụng công nghệ và truyền thông, nhất là sự phổ biến của điện thoại di động và mạng xã hội đã tạo điều kiện cho những cách biểu đạt phong phú, đa dạng, giàu cá tính,
___________________________________________________________
Các yếu tố vốn có trong hệ thống này có thể trước đó cũng được vay mượn từ ngôn ngữ khác nhưng sau đã trở thành một bộ phận hữu cơ của tiếng Việt.
Trang 43
chẳng hạn cách trao đổi thông tin ngắn gọn, tiết kiệm, độc đáo trong giao tiếp của giới trẻ. Tác động đó của công nghệ và truyền thông càng rõ nét trong bối cảnh ý thức cá nhân ngày càng phát triển trong xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng. Từ đó, xuất hiện nhiều "biến thể" ngôn ngữ mới như tiếng lóng. Bên cạnh những tác động tiêu cực đối với tiếng Việt, những ảnh hưởng của việc sử dụng công nghệ và mạng xã hội cũng làm xuất hiện những yếu tố mới, góp phần giúp cho tiếng Việt ngày càng phong phú và phát triển.
1. Các từ ngữ mới trong tiếng Việt được hình thành theo những phương thức chủ yếu nào? 2. Sự phát triển của tiếng Việt hiện nay được thúc đẩy bởi những nhân tố nào? 3. Theo bạn, khi nào thì một ngôn ngữ không phát triển nữa? |
2. Những yếu tố mới của tiếng Việt
a. Khái niệm “yếu tố mới của ngôn ngữ”
Nói đến sự phát triển của một ngôn ngữ, người ta thường xét ở các bộ phận cấu thành quan trọng nhất của nó: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Trong ba bộ phận đó, ngữ âm (kèm theo đó là chữ viết) và ngữ pháp có tính ổn định cao, chúng ta chỉ có thể thấy được sự thay đổi về ngữ âm và ngữ pháp của một ngôn ngữ nếu xét trong khoảng thời gian dài hàng thế kỉ. Còn từ vựng, bao gồm từ và những đơn vị tương đương với từ như thành ngữ, là bộ phận năng động nhất, biến đổi nhanh nhất, vì vậy, cũng thể hiện rõ ràng nhất "yếu tố mới" của một ngôn ngữ. Nói cách khác, các yếu tố mới của ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, chủ yếu là những từ ngữ mới. Vốn từ ngữ của một ngôn ngữ phải không ngừng được bổ sung và trở nên phong phú để đáp ứng nhu cầu biểu đạt các sự vật, hiện tượng mới.
Cái “mới” bao hàm tính lịch sử, gắn với một thời điểm và đối tượng tiếp nhận cụ thể. Yếu tố mới của ngôn ngữ bao giờ cũng phải được xét trong quan hệ “thời điểm nào”, “đối với ai”. Chẳng hạn, có những từ ngữ được coi là mới vào những năm cuối thế kỉ trước như: siêu thị, tiếp thị, internet, thư điện tử,... nhưng hiện nay không còn mới nữa. Vì vậy, yếu tố mới trong ngôn ngữ cần được xem xét trong sự phát triển: một từ ngữ tại thời điểm này là mới, nhưng khoảng một vài thập niên sau thì đã trở thành quen thuộc.
b. Phân loại các yếu tố mới của tiếng Việt
Các yếu tố mới của tiếng Việt có thể được phân loại dựa vào những tiêu chí khác nhau: dựa vào nguồn gốc thì có thể phân biệt yếu tố mới được tạo ra từ những yếu tố có sẵn của tiếng Việt với yếu tố mới vay mượn từ ngôn ngữ khác; dựa vào phạm vi sử dụng thì có thể phân biệt yếu tố mới trong ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ hành chính, ngôn ngữ đời sống,... Tuy vậy, xét từ góc độ đóng góp của yếu tố mới
Trang 44
đối với quá trình phát triển của ngôn ngữ thì mức độ một yếu tố mới được chấp nhận vào hệ thống ngôn ngữ là tiêu chi phân loại quan trọng.
• Những từ ngữ mới đã "nhập" vào hệ thống tiếng Việt
Đây là những từ ngữ mới, nhưng đã được phổ biến rộng rãi và có thể coi là một bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Xét về phương diện nào đó thì những từ ngữ này không còn thực sự mới vì đã quen thuộc với đồng đảo người dân. Một trong những cơ sở để nhận biết một từ ngữ đã "nhập" vào hệ thống là "được đưa vào từ điển", ví dụ: internet, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, đặc khu kinh tế, đa dạng sinh học, công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, người máy,... Tuy nhiên, vì một số lí do, chẳng hạn, việc biên soạn và xuất bản từ điển có "độ trễ" nhất định, dung lượng từ điển bị hạn chế, quan điểm lựa chọn mục từ của người làm từ điển,... có những từ ngữ tuy đã được dùng khá phổ biến, nhưng có thể vẫn chưa xuất hiện trong nhiều từ điển, ví dụ: thương mại điện tử, kinh tế số, dữ liệu lớn, tin tặc, sốt giá, đa phương hóa, gói cước, rổ ngoại tệ, toàn cầu hoá, cư dân mạng, cuộc sống số, số hoá (kho tài liệu), thư viện số,... Những từ ngữ thuộc nhóm này chiếm tỉ lệ lớn nhất và có vai trò quan trọng nhất trong những "yếu tố ngôn ngữ mới" của tiếng Việt.
Thuộc nhóm các từ ngữ mới được dùng phổ biến cần phải kể thêm các cụm từ viết tắt chỉ một số khái niệm mới: CPI (Consumer Price Index: chỉ số giá tiêu dùng), BOT (Build –Operate – Transfer: dự án được triển khai theo phương thức xây dựng – vận hành – chuyển giao), COVID-19 (Coronavirus disease 2019: bệnh nhiễm virus Cô-rô-na năm 2019),... Đó là không tính tên riêng của nhiều tổ chức quốc tế lớn như: ASEAN, APEC, ADB, WB, WTO, WHO,... và tên các tổ chức trong nước như: VOV, VTV,.. viết tắt theo cấu tạo cụm từ tiếng Anh được dùng rộng rãi trong giao tiếp hằng ngày của người Việt
• Những từ ngữ chỉ mới được dùng trong lời nói của một số nhóm xã hội, chưa được “nhập” vào hệ thống tiếng Việt
Đây là những từ ngữ chưa được đông đảo người Việt chấp nhận, chưa hề thấy trong bất kì cuốn từ điển nào. Chúng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, cần có cách tiếp cận thoả đáng
để vừa tạo cơ hội cho ngôn ngữ phát triển nhờ tiếp nhận được những yếu tố mới tích cực
vừa đảm bảo ngôn ngữ tránh được những tác động tiêu cực, giữ gìn được sự trong sáng, chặt chẽ vốn có của nó.
Những từ ngữ mới này chủ yếu xuất hiện trong ngôn ngữ của giới trẻ, trong đó có học sinh phổ thông. Họ là những người thích khám phá, hiếu kì, muốn có những thử nghiệm mới và tự khẳng định cá tính của mình. Những đặc điểm nổi bật đó của giới trẻ cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông (truyền hình, báo giấy, báo điện tử,..), công nghệ giải trí và mạng xã hội đã thúc đẩy việc hình thành những từ ngữ mới trong giao tiếp hằng ngày. Có thể đề cập đến những trường hợp đáng kể sau:
Trang 45
– Những từ ngữ vốn được sử dụng khá hẹp trong một số nhóm xã hội, nhưng đang có xu hướng được phổ biến, không chỉ được giới trẻ sử dụng mà còn được nhiều người lớn tuổi chấp nhận (ga tô, chém gió, nổ, chảnh, soái ca, sống ảo, thả thính, trẻ trâu, đi bão, sành điệu, bá đạo, anh hùng bàn phím, hại não, cùi bắp,...); một số từ ngữ vay mượn tiếng nước ngoài nguyên cả âm, chữ viết lẫn nghĩa, nhất là từ tiếng Anh (liveshow, gameshow, marketing, shopping, hotboy, hotgirl, showbiz, VIP, MC, like,...).
– Một số cách dùng ngôn ngữ xuất hiện trong giao tiếp của một bộ phận xã hội mà chủ yếu là giới trẻ, ví dụ:
+ Cách nói chém xen từ ngữ tiếng Anh trong câu tiếng Việt. Tuỳ vào mức độ chêm xen mà những cách nói này được dùng phổ biến hay không: thank anh, sorry bạn, book vé máy bay, chuyến bay bị delay, check thư, đu trend, mình rất OK với đề xuất này, comment vào bài viết, mình sẽ contact lại với bạn, mình sẽ try again, download tài liệu trên intemet về rồi copy qua file mới,...
+ Cách nói lắp ghép các từ ngữ theo cách "buông thả", từ một từ gốc (chủ yếu là tính từ), người nói mô phỏng cấu trúc thành ngữ (thường là thành ngữ so sánh có từ “như) để tạo một cụm từ mới trong đó âm tiết cuối có cùng vẫn với âm tiết của từ gốc. Những từ được thêm vào chỉ làm cho cụm từ có vần điệu, tạo nên sắc thái riêng cho cách nói (thành ngữ
sành điệu") mà không bổ sung thêm ý nghĩa nào cho từ gốc (buồn như con chuồn chuồn, ác như con tê giác, tự nhiên như có tiên, tào lao bí đao, ăn chơi không sợ mưa rơi, ngày ngày như con gà tây, chán như con giản, ảo tung chảo,...). Có lẽ, những “thành ngữ sành điệu" này được gợi ý từ những thành ngữ tiếng Việt vốn được chấp nhận rộng rãi nhưng các thành phần mở rộng bị mở nghĩa và gây nhiều tranh cãi như: buồn như chấu cắn, ướt như chuột lột, nghèo rớt mồng tơi,...
+"Ngôn ngữ Gen Z" gần với khái niệm "ngôn ngữ teen”, "ngôn ngữ chát”, “teencode phổ biến trong môi trường giao tiếp qua điện thoại, internet (dựa vào các nền tảng mạng
xã hội). Ví dụ, "mã hoá" các con chữ thành những dãy chữ số hay kí tự theo quy tắc riêng mà chỉ có những người trong nhóm mới có thể “giải mã” được 2NT (tonight), G92U (Good night to you), 3 em mới đi làm về (Ba em mới đi làm về), 8 chút xíu đi (Tám chút xíu đi), 9 xác (chính xác)..; hay cố tình viết sai chính tả như: rùi (rồi), lém (lắm), tềnh iu (tình yêu). The la cau hem bit roai! (Thế là cậu không biết rồi)...
Tuy không đáng chú ý bằng các yếu tố mới trong từ vựng, nhưng một số cấu trúc cú pháp khác lạ cũng được một số người sử dụng và có những ý kiến trái chiều, chẳng hạn, đề nhấn mạnh ý cần biểu đạt, một số người dùng cấu trúc câu đảo thành phần như: Sẽ là không tưởng khi nghĩ rằng một quốc gia có thể phát triển mà không cần đến các quốc gia khác;
__________________________________________________________
Ngôn ngữ Gen Z tiếng lóng của những người thuộc thế hệ được sinh ra khoảng cuối thập niên 1990 đến đầu thập niên 2010 (khoảng thời gian này chỉ được xác định một cách tương đối.
Trang 46
Sẽ là bất công nếu không nói đến đóng góp của họ; Dòng xe này được sản xuất bởi một công ti ô tô của Việt Nam; Tài liệu này được biên soạn bởi nhóm giáo viên môn Ngữ văn trường chúng tôi.
Nhiều người cho rằng những cầu trên không được coi là cấu tạo theo quy tắc ngữ pháp tiếng Việt và việc dùng phổ biến những câu kiểu này sẽ làm hỏng tính hệ thống của ngữ pháp tiếng Việt. Cách nói thông thường phải là: Nghĩ rằng một quốc gia có thể phát triển mà không cần đến các quốc gia khác là không tưởng; Nếu không nói đến đóng góp của họ thì sẽ là bất công; Dòng xe này do một công ti ô tô của Việt Nam sản xuất; Tài liệu này được nhóm giáo viên môn Ngữ văn trường chúng tôi biên soạn.
c. Tác động của các yếu tố ngôn ngữ mới đối với tiếng Việt
Các yếu tố ngôn ngữ mới vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực đến tiếng Việt.
– Tác động tích cực: Làm cho vốn từ trở nên phong phú, giúp ngôn ngữ phát triển khả năng biểu đạt, đáp ứng nhu cầu giao tiếp của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội. Ngay cả những yếu tố chỉ mới đang tồn tại trong lời nói của một số cá nhân hay nhóm người chưa được đông đảo người Việt chấp nhận thì xét trên một số phương diện, cũng có tác động tích cực, vì chúng đáp ứng được nhu cầu của một số cá nhân hay nhóm người sử dụng (ngắn gọn, tiện lợi, mới mẻ, dí dỏm, thú vị,...).
– Tác động tiêu cực: Làm tổn hại đến tính chặt chẽ, hệ thống của ngôn ngữ và có thể gây trở ngại cho giao tiếp (khó hiểu, gây hiểu lầm); tạo nên thói quen xấu cho người dùng, nhất là giới trẻ chỉ dùng theo trào lưu mà không hiểu đầy đủ nghĩa của những từ ngữ mình dùng, dễ dài trong việc sử dụng ngôn từ; dẫn đến tình trạng sử dụng ngôn ngữ xô bồ, pha tạp, làm mất đi vẻ đẹp và sự tinh tế của tiếng Việt.
1. Trong các bộ phận cấu thành cơ bản của ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp), bộ phận nào dễ biến đổi nhất? Vì sao?
2. Bạn hiểu như thế nào về “tính mới" của một yếu tố ngôn ngữ
3. Các yếu tố mới của tiếng Việt đương đại có thể được phân loại theo những tiêu chí nào?
4. Các yếu tố ngôn ngữ mới có ảnh hưởng như thế nào đối với tiếng Việt?
Trang 47
ĐỌC VĂN BẢN
Về nguyên tắc vay mượn từ ngữ
Hoàng Văn Hành
[...] Khi bàn về việc mượn tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Hán, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói rõ phạm vi những từ cần mượn. Về điểm này chúng tôi thấy trong những lời dạy của Người có hai ý quan trọng:
Một là, ta chỉ mượn tiếng nước ngoài khi “chữ ta không có sẵn”. Như thế tức là khi có những sự vật, những khái niệm mới cần được gọi tên, được biểu đạt, nhưng trong tiếng Việt còn thiếu những từ cần thiết và thích hợp, thì chúng ta phải mượn tiếng nước ngoài, như một số thuật ngữ khoa học chẳng hạn (...] nhưng chỉ nên dùng danh từ gì thật cần thiết và tiếng ta không có.
Hai là, ta chỉ mượn những từ “khó dịch đúng” sang tiếng ta hoặc trong tiếng ta “không có chữ gì dịch”. Chúng tôi hiểu những từ khó dịch đúng” là những từ khi chuyển sang tiếng Việt không giữ được nguyên vẹn ý nghĩa hoặc màu sắc tu từ của chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm như thế nào về vấn đề vay mượn từ của tiếng nước ngoài
Căn cứ vào những ý kiến này, chúng tôi cho rằng chúng ta cần mượn và dùng những nhóm từ gốc Hán sau đây:
a. Những từ gốc Hán được mượn bằng cách giữ nguyên ý nghĩa khi trong tiếng Việt chưa có các từ tương ứng với chúng. Ví dụ: độc lập, du kích, đặc biệt,...
b. Những từ gốc Hán có quan hệ đồng nghĩa với từ Việt, nhưng khác với từ Việt về màu sắc biểu cảm hoặc phong cách. Chúng không thể hoàn toàn thay thế nhau được. Ví dụ: hi sinh, tạ thế - chết; sinh - đẻ;...
c. Những từ gốc Hán có quan hệ đồng nghĩa với từ Việt, nhưng khác với từ Việt về màu sắc ý nghĩa và cách dùng Chúng không thể thay thế nhau trong mọi trường hợp. Ví dụ: phi – bay, niệm – đọc,...
Phân biệt ba nhóm từ gốc Hán có thể được tiếng Việt vay mượn.
Việc mượn và dùng những từ gốc Hán thuộc ba nhóm trên đây đúng mức, đúng chỗ là cần thiết, vì nó làm cho tiếng nói của ta giàu có, tế nhị chứ không đơn điệu, nghèo nàn. Cho nên, chỉ mượn “những chữ ta không có sẵn và khó dịch đúng” là một nguyên tắc chính trong khi vay mượn tiếng nước ngoài. [...]
(Theo Hoàng Văn Hành, Tìm hiểu những ý kiến của Hồ Chủ tịch về việc mượn và dùng từ gốc Hán, in trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1950, tr. 106 – 107)
________________________________________
Nhan đề văn bản do người biên soạn sách giáo khoa đặt
Hoàng Văn Hành (1934 – 2003); quê ở Hà Nội, là nhà ngôn ngữ học có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu về việc giữ gìn sự trong sáng và chuẩn hoá tiếng Việt, về từ vựng học và biên soạn từ điển. Một số công trình chính: Từ điển từ lấy tiếng Việt (Chủ biên, 1994), Thành ngữ học tiếng Việt (2004).
Trang 48
Trả lời câu hỏi
1. Hãy tìm thêm những từ gốc Hán thuộc các nhóm a, b và c mà tác giả bài viết đã nêu.
2. Bạn có đồng ý với nguyên tắc chỉ mượn "những chữ ta không có sẵn và khó dịch đúng" không? Vì sao?
3. Nêu một số ví dụ vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ châu Âu mà bạn cho là rất cần thiết hoặc không cần thiết.
II. LUYỆN TẬP, VẬN DỤNG
1. Liệt kê một số từ ngữ vốn thuộc phương ngữ mà nay được sử dụng rộng rãi ở nhiều vùng miền khác, góp phần làm giàu cho vốn từ vựng tiếng Việt toàn dân.
2. Tìm thêm những từ ngữ mới mà theo bạn là đã được "nhập" vào hệ thống tiếng Việt.
3. Tổng hợp những từ ngữ mới trong tiếng Việt mà bạn biết và xếp vào các nhóm theo gợi ý ở bảng sau:
BẢNG PHÂN LOẠI TỪ NGỮ MỚI TRONG TIẾNG VIỆT THEO CÁC LĨNH VỰC
Lĩnh vực | ||||
Đời sống | Khoa học, công nghệ (thuật ngữ | Thương mại | Báo chí | Hành chính |
4. Trao đổi nhóm để nhận xét, đánh giá kết quả được tổng hợp ở bài tập 3 dựa vào các gợi ý sau:
a. Từ ngữ mới xuất hiện nhiều nhất trong lĩnh vực nào? Vì sao?
b. Những từ ngữ nào ảnh hưởng tích cực, những từ ngữ nào ảnh hưởng tiêu cực đến việc sử dụng tiếng Việt trong mỗi lĩnh vực?
c. Những từ ngữ nào được vay mượn từ các ngôn ngữ khác, những từ ngữ nào được cấu tạo từ các yếu tố của tiếng Việt? So sánh về tỉ lệ xuất hiện của hai nhóm từ ngữ giữa các lĩnh vực?
d. Bạn có dự đoán gì về xu hướng sử dụng yếu tố mới của ngôn ngữ ở từng lĩnh vực trong tương lai?
Trang 49
5. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tiếng ta phải có những đổi mới, đó là điều tất yếu, vì đời sống tư tưởng và tình cảm ngày nay, nhất là trong lĩnh vực khoa học và kĩ thuật có nhiều cái mới. Tiếng ta phải phát triển. Tất cả vấn để là làm sao đảm bảo sự phát triển này diễn ra một cách vững chắc trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu, nhưng vẫn giữ được phong cách, bản sắc, tinh hoa của nó. Như vậy tức là giữ gìn sự trong sáng của tiếng ta.
(Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, in trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Sđd, tr. 37 – 38)
a. Bạn suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
b. Việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ là vấn đề đặt ra đối với riêng tiếng Việt hay là vấn đề của nhiều ngôn ngữ? Vì sao bạn nghĩ như vậy?
6. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu ý kiến của bạn về sự phát triển tiếng Việt trong đời sống xã hội.
Gợi ý:
– Sự phát triển của tiếng Việt trong đời sống xã hội là vấn đề rộng lớn. Bạn có thể chọn một khía cạnh của vấn đề để viết thành đoạn văn. Chẳng hạn: ứng xử của giới trẻ với những
yếu tố mới của ngôn ngữ, tiếng Việt và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các ý tưởng cải tiến chữ viết tiếng Việt,...
– Đoạn văn cần triển khai theo định hướng của kiểu văn bản nghị luận. Mở đầu đoạn, cần nêu một câu chủ đề (ý kiến, nhận định của bạn về vấn đề được bản), phần còn lại của đoạn sẽ trình bày lí lẻ và bằng chứng chứng minh cho ý kiến, nhận định đã nêu.
7. Thảo luận về một vấn đề ngôn ngữ có liên quan đến nội dung đã học ở Phần 2, Chuyên đề 2.
Gợi ý:
– Bạn và nhóm của mình có thể chọn một nội dung đã triển khai trong bài tập viết ở trên để tổ chức thảo luận. Tuy nhiên, nội dung thảo luận có thể là một vấn đề khác mà bạn và nhóm có nhiều ý tưởng, thông tin, phù hợp với hoạt động thảo luận.
– Để tiến hành thảo luận, bạn cần lập dàn ý thể hiện các ý chính cần được trình bày, Có thể chuẩn bị một số tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ minh hoạ để nội dung trình bày được sinh động.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn