Nội Dung Chính
(Trang 107)
Học xong bài này, em sẽ:
- Phân tích được tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh, về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm.
- Giải thích được Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa trong lịch sử.
- Trình bày được tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
- Nêu được nét chính về cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Giải thích được chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình của Việt Nam.
- Trân trọng những thành quả đấu tranh và sẵn sàng tham gia đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước Việt Nam.
Đường bờ biển của Việt Nam là một phần của Biển Đông với 28 tỉnh, thành phố giáp biển, cứ 100 km² lãnh thổ đất liền có 1 km bờ biển, cao gấp sáu lần trung bình của thế giới. Theo em, biển có vai trò như thế nào đối với sự phát triển của đất nước? Những hình ảnh dưới đây gợi cho em suy nghĩ gì về chủ quyền và việc thực thi chủ quyền trên Biển Đông của Việt Nam?
Hình 1. Tàu Kiểm ngư KN-491
Hình 2. Cảng Quy Nhơn (Bình Định)
1. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam
Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía (đông, nam và tây nam) và có đường bờ biển dài 3 260 km từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang. Biển Đông đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
(Trang 108)
a) Về quốc phòng, an ninh
EM CÓ BIẾT
Vịnh Cam Ranh (tỉnh Khánh Hoà) được coi là bến nước sâu tốt nhất Đông Nam Á, một “pháo đài tự nhiên lí tưởng", "đồn phòng vệ của Thái Bình Dương
Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo và quần đảo trên Biển Đông là những căn cứ tiến tiêu giúp kiểm soát vùng biển và vùng trời trên biển, các tuyến đường qua lại Biển Đông.
Các đảo, cụm đảo của Việt Nam được sắp xếp thành các tuyến đảo phòng thủ liên hoàn.
Hình 3. Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) – "vọng gác tiền tiêu" trên Biển Đông ở cửa ngõ phía nam của vịnh Bắc Bộ
b) Về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm
Vị trí địa lí và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, giao thông hàng hải, sửa chữa và đóng tàu, du lịch,...
Trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam có khả năng khai thác hằng năm đạt khoảng 2,3 triệu tấn. Trữ lượng dầu mỏ và khí được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỉ m³ khí. Vùng ven biển Việt Nam có tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như: ti-tan, thiếc, vàng, sắt, man-gan, đất hiếm,... trong đó, cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
Đường bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên đẹp như Hạ Long, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,.. tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành một "điểm đến hấp dẫn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế du lịch. Dọc bờ biển có thể xây dựng các cảng biển nước sâu (Cái Lân, Nghi Sơn, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu,..) và điểm cảng trung bình (Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang,...).
(Trang 109)
EM CÓ BIẾT
Đảo Phú Quốc đang được quy hoạch để phát triển trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước, khu vực Đông Nam Á và quốc tế, với ba trụ cột chính: công nghiệp giải trí, nghỉ dưỡng, dịch vụ tài chính ngân hàng và kinh tế biển.
Hình 4. Một góc huyện đảo Vân Đồn (Quảng Ninh)
Biển Đông còn là cửa ngõ để Việt Nam giao lưu kinh tế, hợp tác và hội nhập với các nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Toàn bộ hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển đều đi qua Biển Đông.
? 1. Khai thác thông tin trong mục, hãy phân tích tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam.
2. Liên hệ với địa phương em hoặc địa phương mà em biết (tỉnh/thành phố), hãy chỉ ra một số vai trò của biển đối với việc phát triển kinh tế – xã hội.
2. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
a) Việt Nam là nước đầu tiên xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Nhiều bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh rằng ngay từ đầu Công nguyên, người Việt đã tích cực, chủ động và sớm có hoạt động kinh tế và văn hoá ở Biển Đông. Cùng với những nguồn sử liệu tin cậy, có giá trị pháp lí cao của Việt Nam và nước ngoài (văn bản hành chính, tư liệu lịch sử,...) qua các thời kì đã khẳng định Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
- Trước năm 1884
Các tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam như Hồng Đức bản đồ, Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686), Giáp Ngọ bình Nam đồ (1774), Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) và của người phương Tây như: An Nam đại quốc hoạ đồ (1838), Bộ Át lát thế giới (1827) đã thể hiện quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
(Trang 110)
Hình 5. Đại Nam nhất thống toàn đồ
KẾT NỐI VỚI NGÀY NAY
Lễ Khao lễ thế lính Hoàng Sa có lịch sử400 năm và được ghi danh là Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Trong quá khứ, đây là tập tục được tổ chức để tiền những người lên đường làm nhiệm vụ nguy hiểm. Ngày nay, hoạt động này trở thành lễ hội diễn ra vào ngày 20-2 âm lịch hằng năm ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) để tưởng nhớ công ơn của những người có công xác lập, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Một số công trình sử học và địa lí của Việt Nam thời quân chủ cũng ghi chép tường tận về cương vực, lãnh thổ, hình thế đất nước và những hoạt động thực thi, bảo vệ chủ quyền của các chính quyền vua Lê - chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Tây Sơn và triều Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa như: Đại Việt sử kí tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí,...
Hoạt động xác lập chủ quyền, quản lí liên tục mang tính nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được khẳng định thông qua việc thành lập và hoạt động của các đội dân binh Hoàng Sa và Bắc Hải. Các đội dân binh này hoạt động trong suốt thời gian từ
(Trang 111)
thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX, vừa làm nhiệm vụ kiểm soát, vừa khai thác tài nguyên ở các đảo thuộc hai quần đảo này. Dưới triều Nguyễn, hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải còn phối hợp cùng thuỷ quân đi khảo sát, đo đạc để vẽ bản đồ, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, xây dựng miếu thờ, đào giếng, trồng cây,... trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Hoàng Sa.
TƯ LIỆU 1. Họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Lấy được hoá vật của tàu như là gươm ngựa, hoa bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ chiêm, cùng là vỏ đổi mỗi, hải sâm, hạt ốc vân rất nhiều... Đến kì tháng 8 thì về...
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải... Lệnh cho đi chiếc thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
(Theo Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Văn hoá – Thông tin, 2007, tr. 155)
Hình 6. Tượng đài đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
TƯ LIỆU 2. “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836), mùa Xuân tháng Giêng ngày mồng 1... 1 Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (
Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước
kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một vài nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Vua y lời tâu, phái Suất đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyến đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng dấu ghi... mặt bài khắc những chữ: “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ.
(Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập bốn, NXB Giáo dục, 2007, tr. 867)
(Trang 112)
- Từ năm 1884 đến năm 1975
EM CÓ BIẾT
Năm 1898, khi Công tỉ Bảo hiểm Anh đòi Trung Quốc phải bồi thường việc người dân Hải Nam "hôi của" tàu Bê-lô-na của Đức bị đắm vào năm 1894 ở ngoài khơi bãi đá Bắc và tàu U-nô-phi Ma-ru của Nhật Bản đầm năm 1896 cũng ở quân đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã nêu lí do quần đảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc để dứt khoát từ chối bồi thường.
Cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp (khi đó là đại diện ngoại giao của triều Nguyễn) tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam, quản lí và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng thông lệ pháp lí quốc tế.
Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp đã tiến hành xây dựng cột mốc chủ quyền, đèn biển, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và thực hiện nhiều khảo sát khoa học,...
Hình 7. Cột hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa được xây dựng năm 1937
Hình 8. Bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa do người Pháp xây dựng vào năm 1938
Đến tháng 9 – 1951, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa tiếp tục được tuyên bố và công nhận tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô với sự tham dự của 51 quốc gia thành viên Liên hợp quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1975, hai quần đảo được đặt dưới sự quản lí hành chính của chính quyền Sài Gòn.
Chính quyền Sài Gòn đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thông qua việc ban hành các văn bản hành chính nhà nước, cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính. Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa - vũng Tàu ngày nay)).
Từ ngày 13 đến ngày 28-4-1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo và triển khai lực lượng thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
- Từ sau năm 1975 đến nay
Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lí và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này đã được thành lập.
Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (từ năm 1997 thuộc thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà được thành lập. Trong huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như: thị trấn Trường Sa (bao gồm đảo Trường Sa Lớn và phụ cận); xã Song Tử Tây (đảo Song Tử Tây và phụ cận); xã Sinh Tồn (đảo Sinh Tồn và phụ cận)....
(Trang 113)
? 1. Khai thác các tư liệu 1, 2 và thông tin trong mục, em hãy nêu quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của các triều đại quân chủ Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
2. Em hãy giải thích vì sao Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa trong lịch sử.
b) Tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông: quá khứ và hiện tại
Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông bao gồm tranh chấp về đảo và vùng biển, cụ thể: 1. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam; 2. Tranh chấp trong việc xác định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chống lấn giữa các nước có vùng biển liền kề hay đối diện ở xung quanh Biển Đông.
Hiện nay, các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin và một bên là Đài Loan.
Bảng khái quát tình hình tranh chấp ở Biển Đông
Việt Nam
- Đã xác lập và thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa liên tục từ thế kỉ XVII.
- Năm 1956: đánh chiếm nửa phía đông của quần đảo Hoàng Sa (nhóm An Vĩnh).
Trung Quốc
- Tháng 1 – 1974: đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
- Từ năm 1987 đến tháng 4 – 1988: đánh chiếm đảo Gạc Ma, Len Đao, Chữ Thập và
- chiếm đóng trái phép một số đảo khác trên quần đảo Trường Sa.
- Năm 1995: đánh chiếm đá Vành Khăn nằm về phía đông nam quần đảo Trường Sa.
Đài Loan
- Năm 1956, chiếm đóng đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.
- Năm 1995, chiếm bãi cạn rạn san hô Bàn Than.
Ma-lai-xi-a
- Tháng 12 –1979, xuất bản bản đó gộp vào lãnh thổ Ma-lai-xi-a phía nam quần đảo Trường Sa, đảo An Bang và Thuyền Chài.
- Những năm 80 của thế kỉ XX, chiếm đóng các bãi ngắm ở phía nam quần đảo Trường Sa.
Phi-líp-pin
- Năm 1956, tuyên bố có quyền khai thác, lập nghiệp tại nhóm đảo Trường Sa.
- Từ năm 1971 đến năm 1980, chiếm đóng 9 đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
- Năm 1978, ban hành Sắc lệnh 1596 tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Bru-nây
Chưa chiếm giữ đảo nào nhưng đưa yêu sách chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa trong tuyên bố về ranh giới thềm lục địa 200 hải lí năm 1983 và về vùng đặc quyền kinh tế năm 1984.
(Trang 114)
Cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI, Trung Quốc gia tăng các hành động tranh chấp và gây hấn khiến cho tình hình Biển Đông ngày càng căng thẳng và phức tạp.
? Khai thác thông tin trong mục, hãy trình bày tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
c) Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh kiên quyết nhằm bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Hình 9. Sơ đồ khái quát về cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Từ sau năm 1975 đến nay
- Từ tháng 3 – 1988 đến nay, nhà nước Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lí để khẳng định, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông.
- Tháng 3 – 1988, nhiều chiến sĩ hải quân Nhân dân Việt Nam đã hi sinh anh dũng khi chiến đấu bảo vệ chủ quyền tại các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1975
- Tháng 1 – 1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc.
- Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Từ năm 1884 đến năm 1954
- Năm 1946, chính quyền thực dân Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo đã chiếm đóng trái phép.
- Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Trước năm 1884
Từ thời chúa Nguyễn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải có nhiệm vụ tuần tiễu giữ gìn vùng biến, ứng chiến với nạn cướp biển và những xâm phạm tại quần đảo Hoàng Sa,...
(Trang 115)
Hình 10. Tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma được xây dựng ở huyện Cam Lâm (tỉnh Khánh Hoà)
? Em hãy nêu hoạt động đấu tranh bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông.
3. Chủ trương của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
Nhà nước Việt Nam thực hiện các biện pháp toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự nhằm bảo vệ quyền, chủ quyền và các lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông.
Đối với các tranh chấp chủ quyền, Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông thông qua biện pháp hoà bình với tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế.
(Trang 116)
1. Ban hành văn bản pháp luật khẳng định chủ quyền:
- Tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam (5 – 1977).
- Sách Trắng: "Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa" (9 – 1979).
- Sách Trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam" (12–1981).
2. Tham gia Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS).
Theo Công ước Luật Biến UNCLOS, Việt Nam là quốc gia ven biển có các vùng biển và thềm lục địa để thăm dò và khai thác với diện tích khoảng gần một triệu ki-lô-mét vuông, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền.
3. Thông qua Luật Biển Việt Nam năm 2012.
4. Thúc đẩy và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
5. Tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
6. Phát triển kinh tế biến và gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển.
7. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.
TƯ LIỆU 3. Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hoà bình mà không viện đến sự đe doạ hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
(Trích Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được các nước ASEAN và Trung Quốc kí ngày 4-11-2002 tại Thủ đô Phnôm Pênh, Cam-pu-chia)
TƯ LIỆU 4. Mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh...
Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: 1. Du lịch và dịch vụ biển; 2. Kinh tế hàng hải; 3. Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; 4. Nuôi trồng và khai thác hải sản; 5. Công nghiệp ven biển; 6. Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
(Trích Nghị quyết 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 22 – 10 – 2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045)
(Trang 117)
Hình 11. Giàn khoan Đại Hùng 01 của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
Hình 12. Tàu hộ vệ 016 Quang Trung của Hải quân Nhân dân Việt Nam
? Khai thác các tư liệu 3, 4 và thông tin trong mục, hãy cho biết chủ trương của Việt Nam khi giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông và nêu một số dẫn chứng.
LUYỆN TẬP – VẬN DỤNG -
1. Lập bảng hệ thống (hoặc sơ đồ tư duy) về tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông trên các mặt quốc phòng, an ninh, kinh tế đối với Việt Nam.
2. Sử dụng tư liệu lịch sử để chứng minh rằng: Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập, quản lí liên tục và thực thi, bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
3. Giải thích vì sao Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hoà bình?
1. Là một học sinh, em cần làm gì để góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước?
2. Sưu tầm tư liệu từ sách, báo, internet, hãy viết bài (không quá 300 từ) phân tích về ý nghĩa của hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn