Nội Dung Chính
TIỂU DẪN
Hoàng Cầm (1922 – 2010) tên khai sinh là Bùi Tằng Việt, quê ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo. Từ nhỏ, ông sống trong không khí dân ca – đặc biệt là dân ca quan họ, sớm có năng khiếu làm thơ và ngâm thơ.
Hoàng Cầm gia nhập Thanh niên cứu quốc từ năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám, ông hăng hái hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến (viết kịch và diễn kịch, sáng tác thơ). Ông tham gia quân đội từ năm 1947 đến năm 1955, từng làm đoàn trưởng Đoàn văn công Tổng cục chính trị và uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Hoàng Cầm được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm chính : trước Cách mạng tháng Tám có các vở kịch thơ Hận Nam Quan (1937), Kiều Loan (1942), Lên đường (1944) ; sau Cách mạng tháng Tám có trường ca Tiếng hát quan họ (1956), kịch thơ Tiếng hát Trương Chi (1957), truyện thơ Men đá vàng (1989), các tập thơ Mưa Thuận Thành (1991), Về Kinh Bắc (1994),...
Bài Bên kia sông Đuống ra đời năm 1948. Sông Đuống còn gọi là sông Thiên Đức, là một nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh ra làm hai phần : nam (hữu ngạn – "bên kia") và bắc (tả ngạn). Quê hương, gia đình Hoàng Cầm ở bờ nam sông Đuống. Khi giặc Pháp chiếm nam phần Bắc Ninh thì Hoàng Cầm đang công tác ở Việt Bắc. Một đêm giữa tháng 4 - 1948, Hoàng Cầm nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, ông xúc động và ngay đêm ấy viết bài Bên kia sông Đuống. Bài thơ đăng lần đầu tiên trên báo Cứu quốc tháng 6 - 1948 và được phổ biến nhanh chóng từ Việt Bắc tới Khu Ba, Khu Bốn, vào miền Nam và ra tận Côn Đảo.
Bản thảo gốc của bài thơ không còn nữa. Ở đây văn bản Bên kia sông Đuống được chỉnh lí, khôi phục dựa trên sự đối chiếu nhiều văn bản khác nhau và trí nhớ của nhà thơ. Văn bản này được tác giả xác nhận là gần với bản gốc hơn cả. Vì bài thơ quá dài nên người biên soạn có lược một số đoạn.
*
1. Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
5. Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
10. Sao xót xa như rụng bàn tay
*
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ(1) gà lợn nét tươi trong
(1) Tranh Đông Hồ : Đông Hồ và Bắc Hồ (tức làng Lạc Thổ) là hai thôn kề nhau bên bờ sông Đuống, nay hợp nhất gọi là Song Hồ. Đông Hồ nổi tiếng về nghề vẽ tranh dân gian ngày Tết : tranh gà lợn, đám cưới chuột, hứng dừa, đánh ghen, tranh các anh hùng thời xưa, v.v. nét vẽ vui nhộn, hóm hỉnh, màu sắc tươi tắn, trong sáng.
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp(1)
15. Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ(2) một đàn
20. Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương(3)
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột(4) đang tưng bừng rộn rã
25. Bây giờ tan tác về đâu
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên(5)
Những hội hè đình đám
30. Trên núi Thiên Thai(6)
Trong chùa Bút Tháp(7)
Giữa huyện Lang Tài(8)
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
35. Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
(1) Giấy điệp : giấy vẽ tranh của làng Hồ là loại giấy dó, dày và dai, quét điệp (một chất liệu chế tạo bằng bột vỏ điệp (giống như loài hến), hoà với chất keo, màu trắng tinh nổi cát óng ánh).
(2) Chó ngộ : chó dại.
(3) Đàn lợn âm dương : làng Hồ thường vẽ tranh lợn có xoáy âm dương xanh đỏ – tượng trưng loại lợn giống tốt, hay ăn chóng lớn. Ngày Tết, người ta treo tranh lợn âm dương để mong chăn nuôi phát đạt.
(4) Đám cưới chuột : một đề tài tranh Đông Hồ.
(5) Có bản chép : "Mấy trăm năm ước hẹn tình duyên - Tiếng trống hội làng giục giã".
(6) Núi Thiên Thai : thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
(7) Chùa Bút Tháp : thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
(8) Huyện Lang Tài : nay là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu
Ai về bên kia sông Đuống
40. Có nhớ từng khuôn mặt búp sen(1)
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi(2) người đua chen
Bãi Trầm Chỉ(3) người giăng tơ nghẽn lối
45. Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu(4)
Bây giờ đi đâu về đâu
50. Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
55. Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gây teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
60. Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
(1) Khuôn mặt búp sen : hình ảnh ví von gợi trí tưởng tượng của người đọc về vẻ đẹp xinh, dịu dàng, tươi tắn và thanh quý của khuôn mặt những cô gái Bắc Ninh.
(2) Chợ Hồ, chợ Sủi : chợ Hồ thuộc xã Song Hồ, chợ Sủi cũng ở bờ nam sông Đuống, trước thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Bãi Trầm Chỉ : thuộc địa phận làng Trầm Chỉ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Làng Trầm Chỉ ở cạnh chùa Dâu, có nghề tơ tằm xe chỉ. Có bản chép : "Cổng chùa Dâu tơ hồng giăng nghẽn lối" gợi không khí vắng lặng, lạc hẳn với chủ đề đoạn thơ.
(4) Đồng Tỉnh, Huê Cầu : hai thôn liền kề (Đồng Tỉnh, Xuân Cầu tức Huế Cầu) thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, xưa thuộc Bắc Ninh, nay thuộc Hưng Yên, cũng ở "bên kia" sông Đuống. Đồng Tỉnh, Huế Cầu là những làng nghề nổi tiếng. Ca dao : "Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu - Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm".
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
65. Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
70. Ngày tranh nhau một bát cháo ngôi
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sấm
75. Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguội hờn
[...]
Việt Bắc, tháng 4 - 1948
HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM
1. Qua ba khổ thơ đầu (từ câu 1 đến câu 10), anh (chị) hình dung toàn cảnh "bên kia sông Đuống" nhìn từ "bên này" như thế nào ? Anh (chị) tưởng tượng như thế nào về hình ảnh sông Đuống "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì" ? Phân tích tâm trạng nhà thơ qua hình ảnh so sánh "Sao xót xa như rụng bàn tay".
2. Từ câu 11 đến hết đoạn trích, niềm thương mến và nỗi đau đớn, xót xa của nhà thơ biểu hiện như thế nào qua những hình ảnh và giọng thơ khi nói đến những giá trị văn hoá, vẻ đẹp cổ truyền, sinh hoạt yên bình và những con người thân yêu trên quê hương bị giặc tàn phá, đày đoạ ? Niềm thương xót của nhà thơ chủ yếu hướng về những nhân vật nào ? Vì sao ? Điệp khúc "đi đâu, về đâu" gợi cho anh (chị) cảm xúc gì?
3. Bài thơ chỉ nói về một vùng quê cụ thể nhưng đã động tới tình quê hương của mọi người Việt Nam. Hãy giải thích vì sao,
4. Anh (chị) thích những câu thơ, những hình ảnh nào trong bài thơ ? Hãy phân tích nội dung và nghệ thuật của những câu thơ, những hình ảnh ấy.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn