Nội Dung Chính
TIỂU DẪN
Dương Khuê (1839 - 1902) hiệu là Van Trì, người làng Van Dinh, huyện
Ứng Hoà, Hà Nội, đỗ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Khuyến, đỗ tiến sĩ năm
1868. Con đường làm quan có nhiều thăng trầm. Có thời gian làm tham tá
Nha Kinh lược Bắc Ki, sau làm Tổng đốc Nam Định, Ninh Binh, được thăng
hàm Thượng thư. Ông cáo quan về hưu lúc năm mươi tám tuổi. Thơ Dương
Khuê bộc lộ nhiều ưu tư về thời cuộc, nghệ thuật trang nhã, tinh tế. Ông có
nhiều đóng góp cho thể thơ hát nói và nghệ thuật ca trù.
Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ chữ Han Van đồng
niên Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng thư (Viếng bạn đồng niên là Tiến sĩ Vân
Đình Thượng thư họ Dương). Sau đó ông tự dịch bài thơ này ra tiếng Việt. Bài
thơ Nôm Khóc Dương Khuê được truyền tụng rộng rãi hơn bài thơ chữ Hán.
1. Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mac ngâm ngui lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoat}) Hgày trước,
Van sớm hôm tôi bác cùng nhau ;
5. Kính yêu từ trước đến sau,
Trong Khi gặp gỡ khác dau duyên trời ?
Cing có lúc chơi nơi dam khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo ;
Có khi từng gác cheo leo,
10. Thú vui con hát lua chiều cẩm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhap,
A Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuán.
(1) Đăng khoa : thi đỗ.
(2) Cam xoang : cung dan va diéu hat.
(3) Quỳnh tương : rượu ngon (nghĩa ban đầu là nước trong chén ngọc quynh — một thứ ngọc quý).
Có khi bàn soạn cau văn,
Biết bao đông bich\”, điển phần [rước sau.
15. Buỏi dương cửu?
Phận đẩu thăng?
cùng nhan hoạn nạn,
chẳng dám tham trời ;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là !
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
20. Trước ba năm gặp bác một lan ;
Cẩm tay hỏi hết xa gan,
Mừng rằng bác hãy tỉnh thần chưa can,
Kể tudi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại dau trước bác mấy ngày ;
25. Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bông chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mai lên tiên ;
Rượu ngon không có bạn hiển,
30. Không mua không phải không tiền không mua.
Cau thơ nghĩ dan do không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo cũng hững ho,
Dan kia gay cũng ngẩn ngơ tiếng dan
35. Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương ;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan !
(Thơ văn Nguyễn Khuyến, Sdd)
(1) Đông bích : vách phía đông, nơi để sách và ngồi đọc sách — theo điển Đóng bích dé thư, tây
viên hàn mặc (Vách phía đông để sách, vườn phía tây để bút mực).
(2) Điển phần : tương truyền là tên các pho sách cổ xưa, biểu tượng cho sách cổ điển.
(3) Dương cứu : chữ lấy trong Kinh dịch, chỉ thời tai ách, hoạn nạn.
(4) Đẩu thăng : cái đấu, cái thang — dụng cụ và là đơn vị đo lường ngày xưa. Phận đẩu thăng :
phận làm quan hưởng lương bổng theo các mức khác nhau đo triều đình quy định.
(5) Chưa can : chưa hề gì.
(6) Cả câu nhắc điển Trần Phồn thời Hậu Hán sắm chiếc giường dành riêng cho người bạn thân là
Từ Trĩ, khi bạn đến thì đem giường xuống, khi bạn về thì treo cất đi.
(7) Cả câu nhắc điển Bá Nha — Chung Tử Kì, hai người ban tri âm. Bá Nha rất giỏi đàn. Chung
Tử Kì chỉ nghe tiếng đàn của Bá Nha mà như nhìn thấu cõi lòng người chơi. Khi Chung Tử
Kì mất, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho rằng thế là thiên hạ đã hết người hiểu được
tiếng đàn của mình.
HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM
1. Bài tho có thé chia thành mấy đoạn ? Ý chính của mỗi đoạn là gi ? Nêu nhận xét về bố
cục nay.
2. Qua hai câu mở đầu bài tho, sự tinh tế trong cách dién tả nỗi dau của tác giả khi đột
ngột nghe tin bạn mất đã được thể hiện như thế nào ?
3. Làm rõ niềm xúc động của tác giả khi ôn lại những kỉ niệm về một tình bạn thân thiết,
mặn nồng trong đoạn thơ từ câu 3 đến câu 18.
4. Tìm hiểu nét đặc biệt trong cách nhà thơ nói về việc bạn từ giã cõi trần ở đoạn thơ từ
câu 19 đến câu 28.
5. Để diễn tả cảm giác hãng hụt, trống vắng của mình ở các câu từ 29 đến 34, tác giả đã
dùng thủ pháp nghệ thuật gì ? Chỉ ra hiệu quả của việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật đó.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn