Nội Dung Chính
TIỂU DẪN
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) quê ở làng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ;
xuất thân trong một gia đình nho sĩ, quan lại.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Công Hoan dạy học và
viết văn. Ông viết cả truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng đóng góp độc đáo,
nổi bật nhất là truyện ngắn trào phúng, bắt đầu từ tập truyện ngắn Kép Tư
Bền (1935). Ông là nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có ý nghĩa phê phán mạnh mẽ xã hội
thuộc địa nửa phong kiến đương thời. Nguyễn Công Hoan có nhiều đóng góp
vào sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ.
Sau Cách mạng, Nguyễn Công Hoan tiếp tục sáng tác phục vụ kháng
chiến, xây dựng đất nước. Ông từng được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành
Hội Nhà văn Việt Nam khoá đầu tiên (1957 - 1958). Nguyễn Công Hoan được
Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 1996.
Tác phẩm chính : Trước Cách mạng, gồm các tập tiểu thuyết như Lá ngọc
cành vàng (1935), Cô giáo Minh (1935), Bước đường cùng (1938),... và các
tập truyện ngắn Kép Tư Bền (1935), Hai thằng khốn nạn (1937), Đào kép mới
(1937),... Sau Cách mạng, ngoài các tập truyện ngắn và tiểu thuyết, ông còn
có tập hồi kí Đời viết văn của tôi (1971).
Truyện ngắn Tỉnh thần thể dục (đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số
251, ngày 25 - 3 - 1939) vạch rõ tính chất bịp bợm của "phong trào thể dục thể
thao" mà thực dân Pháp cổ động rầm rộ để đánh lạc hướng thanh niên khi đó.
1. Có lính huyện mang trát quan về làng :
Quan trì huyện huyện XX. sức”) hương l퓈 xã Ngũ Vọng tuân cứ"”. (2) (3)
(1) Sức : truyền lệnh (lệnh quan bằng văn bản) cho cấp dưới thi hành.
(2) Hương lí : các chức sắc ở làng xã thời Pháp thuộc.
(3) Tuân cứ : chiếu theo mệnh lệnh cấp trên mà thi hành.
Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Marst)
vận động huyện có cuộc đá bóng thỉ, nhiêu chiến tướng) đá rất hay, mọi nhế.
này, túc 29 tháng giêng An Nam, tại sân
Vậy sức các thây phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm
người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện”),
Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được
miên.
Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải
Võ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.
Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.
Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cñu ).
Nay sức
LÊ THĂNG
2. Anh Mịch nhãn nhó, nói :
— Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo
ông ấy đánh chết,
Ông lí cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, đậm doạ :
~ Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh), thì lần này đến lượt mày rồi.
— Cần cô con lạy ông trăm nghìn mớ lạy", ông mà bắt con đi thì ông nghị ghét con,
cả nhà con khổ.
— Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à ?
(1) Mars (tiếng Pháp) : tháng ba.
(2) Chiến tướng : tướng trong chiến trận ; ở đây ý nói có nhiều cầu thủ giỏi, đá hay.
(3) Khiếm điện : vắng mặt.
(4) Cữu : khiển trách.
(5) Ông nghị : ông nghị viên.
(6) Sổ đỉnh : số danh sách số dân đỉnh trong làng (đỉnh : những người đàn ông thuộc lứa tuổi
đóng thuế thân và đi lính).
(7) Trăm nghìn mớ lạy : van lạy rất nhiều, rất khẩn thiết (mớ : mười vạn - từ cũ, ít dùng ; khác
Với mớ trong mớ rau, mớ cá).
— Đối với ông nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là
chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
— Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao
làm. Đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tùt),
— Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
— Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mày mà
không đi, tao sai tuân” đến gô cổ lại, đừng kêu.
3. Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với
ông lí :
— Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn”), mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám
đến kêu. Lạy thầy, quyền phép”? trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con
đi xem đá bóng vội.
-“ñ việc quan không phải thứ chuyện đàn bà của các chị !
— Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thây cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu,
nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau.
-Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi,
thì người ta đá bóng cho chó xem à ?
— Thưa thầy, giá nhà con khoẻ khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng, thưa thầy,
từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch `, sợ nhà con đi nắng thì cảm, rồi phải lại
thì oan gia t6),
— Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâu. Vợ chồng thu xếp với nhau thế
nào, đây mặc kệ !
— Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ ?
~ Không ! Phải là đàn ông kia. Chứ nữ nhân ngoại tộc), ai kể.
(1) Rñ tù : chết rũ trong tù.
(2) Tuần (chữ gọi tắt của tuần đỉnh hoặc tuân phiên) : trai trắng trong làng được cắt cử làm tuần tra,
canh phòng.
(3) Cất cơn : đứt cơn.
(4) Quyển phép (khẩu ngữ) : quyên và phép tắc, luật lệ.
(5) Cây lô mếch : cây số, kilômét (phát âm theo kiểu dân gian).
(6) Phải lại thì oan gia : ốm trở lại thì oan uống, tội nghiệp (phải lại : ốm trở lại ; oan gia — khẩu
ngữ : tai vạ oan uổng, khác với oan gia — từ Hán Việt : nhà, kẻ có thù oán).
(7) Nữ nhân ngoại tộc : đần bà chỉ là người ngoài gia tộc (quan niệm phong kiến) ; ở đây được
dùng với nghĩa là đàn bà không được kể đến.
Người đàn bà thở dài :
— Thế thì con biết làm thế nào được !
4. Bà cụ phó Bính, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên :
— Thì lòng thành, ông lí cứ nhận đi cho cháu. Chấu hôm ấy không bận đi ăn cưới
thì cháu cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. Ông ngơ
đi là được.
— Thế ngộ quan biết, có chết tôi không !
— Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.
— Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơi.
— Thì cũng như ông làm phúc ấy mà l1.
— Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấy.
— Ông không phải lo việc ấy. Nó đã dạm mượn được đủ cả rồi. Cháu mặc cả và đã khoán” đủ với nó như thế.
Ông lí nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi :
— Lầm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.
— Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế
chứ gì.
~ Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đi.
— Ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Đá bóng ít ra ba bốn giờ chiều
mới bắt đầu kia mà. Tôi tưởng 12 giờ ở nhà đi cũng vừa. Buổi sáng, tôi còn mượn nó
cuốc mảnh vườn.
- Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa. Để ngài
điểm. Mà quan sức 12 giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủa. Vả lại, tôi còn phải
mang cờ lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nào ? Cho nên, mọi người
phải chờ tôi ở đình từ gà gáy.
— Thế thì sớm quá.
Ông lí gắt :
— Tôi không lôi thôi. Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà.
Mặc kệ !
Bà phó sợ hãi :
— Không, lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghe. Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.
(1) Khoán : giao công việc và trả công theo kết quả hoàn thành.
- Mấy 1i, bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm
cơm từ chiều hôm trước, chứ sáng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâu.
— Vâng.
5. Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lí quát
tháo om sòm :
— Thiếu những mười tám thằng kia à ? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng
nó ra đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng !
Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tỉnh kéo đi các ngả. Ông lí dặn theo, tiếng
Oang oang :
— Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết? chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó !
Việc quan thế này có chết cha người ta không ! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây
cho ông Ì
Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậy. Ngọn lửa đỏ như nổi lễnh bểnh
trong biển sương mù.
Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này :
Hai người tuần, một người cầm đuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà
thằng Cò. Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống
bếp, chọc tay thước vào cót gio và bồ trấu. Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệu.
Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người
trốn : thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.
Nó bị lôi ra ngoài. Nó van lạy :
— Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.
— Sao anh đã hẹn với ông lí, lại không đi, để ông ấy chửi địa'”” lên kia kìa.
— Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đói.
~ Tôi không biết !
— Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áo.
— Không biết ! Anh ra đình mà kêu với ông lí.
(1) Mấy I¡ (phát âm ở một số vùng nông thôn miền Bắc) : với lại.
(2) Sặc tiết : hộc máu mồm, máu mũi.
(3) Chửi địa : chửi âm 1, đây giận dữ.
Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữa.
Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi xềnh xệch đi.
6. Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi
xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác.
Họ làm như lánh nạn.
Khi thấy đã chậm giờ, ông lí trưởng nghiến răng nói :
— Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt.
Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
Rồi ông ra lệnh :
— Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải
kèm chung quanh giúp tao. Đứa nào trốn về thì ông bảo.
Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.
— Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như
trốn giặc !
1938
(Theo Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM
Đọc Kĩ truyện ngắn, đặt cho mỗi phần (được đánh số từ 1 đến 6) một cái tên thích hợp nhất.
2. Bố cục và cách dựng truyện của Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn này có gì đặc
biệt ? (Gợi ý : Sau phần mở đầu ghi nguyên văn tờ ái của tri huyện Lê Thăng, truyện
gồm mấy cảnh, các cảnh đó có quan hệ với nhau và quan hệ với tờ rá? như thế nào ?)
3. Nghệ thuật trào phúng của thiên truyện được xây dựng trên những mâu thuẫn trào
phúng. Anh (chị) hãy cho biết mâu thuẫn trào phúng chung của toàn truyện. Trên cơ
sở mâu thuẫn chung ấy, mâu thuẫn trào phúng riêng của từng đoạn là gì ?
4. Các thủ pháp nói giễu, cường điệu, cách dẫn truyện, ngôn ngữ đối thoại,... của tác giả
trong truyện ngắn này rất tự nhiên mà hài hước. Hãy tìm và phân tích một vài chỉ tiết
đặc sắc để minh hoạ.
5. Hãy nêu ý nghĩa phê phán của truyện Tỉnh thần thể dục.
(1) Tróc : lùng bắt kì được.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn