Nội Dung Chính
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Cảm nhận duoc ân tình sâu nặng của nhà thơ đối với ba
Tú — một người vợ điển hình của truyền thống Việt Nam.
Thấy được kha năng tỉ người, gợi cảnh day tài hoa, việc
sử dụng tiếng Việt chuẩn xác, tỉnh tế và sự sáng tạo một
bài thơ Nôm Duong luật đạt giá trị nghệ thuật cao.
TIỂU DẪN
Trần Tế Xương (1870 - 1907)
người làng Vi Xuyên, huyện Mi Lộc,
tỉnh Nam Định, nay là phố Hàng
Nâu, thành phố Nam Định. Là người
có cá tính đầy góc cạnh, phóng
túng, không chịu gò mình vào khuôn
sảo trường quy, vì thế dù ông có tài
(thi Hương từ mười lăm tuổi) nhưng
đi thi nhiều lần vẫn chỉ đỗ đến tú tài
(nên gọi là Tú Xương - "Xương" có
nghĩa là hưng thịnh).
Tú Xương lớn lên vào buổi đầu
của chế độ thuộc địa nửa phong kiến,
xã hội Việt Nam đang chuyển mình
“ theo hướng tư sản hoá, trước hết ở
Trân Tế Xương các đô thi,... Tại đây xuất hiện nhiều
(Chân dung do hoa sĩ Tran Quang Trân vé) cảnh nhố nhăng, chướng tai gai mắt.
Sáng tác của Tú Xương chủ yếu là thơ Nôm, hiện còn khoảng trên một
trăm bài gồm các thể thất ngôn bat cú, tứ tuyệt, lục bat, song thất lục bát, phú,...
Ông sở trường về thơ trào phúng với sức châm biếm mạnh mẽ, sâu sắc. Tầm
cỡ lớn của Tú Xương là ở chỗ tiếng cười của ông bao giờ cũng cất lên từ một
nền tảng trữ tình mang nội dung nhân đạo và lòng yêu nước thiết tha. Cho nên
cười đấy mà thật sự xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân
cực khổ, trong khi những kẻ bất lương vô đạo thì nhén nhơ, vênh váo.
Tiếng cười trong thơ Tú Xương có nhiều cung bậc : có khi là châm biếm
sâu cay, có khi là đả kích quyết liệt, có khi lại là nụ cười tự trào mang sắc thái
ân hận, ngậm ngùi pha giọng tâm tình tha thiết mà bài Thương vợ là một bằng
chứng tiêu biểu.
Trong thơ Tú Xương, ba Tú là một đề tài độc đáo, được thé hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Bài nào cũng mang ân tình sâu nang nhưng thường pha
giọng đùa để tỏ lòng thương quý và quan hệ thân mật đồng thời cũng để tự giễu
mình. Bà Tú tên là Phạm Thị Mẫn, quê ở Lương Đường, Hải Dương, nhưng sinh
ở Nam Định. Bà Tú buôn gạo để nuôi chồng, nuôi con. Ngày trước, từ khi có chế
độ khoa cử, nhiều người vợ đã tần tảo nuôi chồng ăn học, mong sau này thi đỗ
làm quan làm rạng danh cho gia tộc.
Thương vợ là một trong những bài thơ hay nhất, cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi du năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên!” hai no” du danh phan,
Năm nắng mười mura dám quan công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
(Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, 1984)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Qua bốn câu đầu, hình ảnh bà Tú hiện lên cụ thể, sinh động như thế nào ? Tìm
những từ ngữ có giá tri tạo hình ở đây.
2. Câu 2 có sắc thái tự trào như thế nào ?
3. Câu 5 — 6 nói lên đức tính gì của bà Tú ?
4. Hai câu kết là lời chửi. Ai là người chửi ? Đối tượng chửi là ai ? Ý nghĩa lời chửi là gi?
5. Tình cảm của ông Tú đối với bà Tú được thể hiện như thế nào qua những câu tả
bà Tú và những câu tự giéu của nhà thơ ?
6. Học thuộc lòng bài thơ này.
(1) Mom sông : phan đất ở bờ nhô ra phía long sông.
(2) Duyên : ở đây có nghĩa là quan hệ vợ chồng do trời định san.
(3) Nợ: ở đây có nghĩa là gánh nặng phải chịu.
Bình Luận
Để Lại Bình Luận Của Bạn